(Tập thơ "Trầm tích thời gian" của Vân Anh, NXB Nghệ An, 2025)
PGS.TS. Nhà văn Đinh Trí Dũng
Sau nửa thế kỷ sáng tạo và gắn bó chung thuỷ với thơ, nhà thơ Vân Anh lại cho ra mắt tập thơ mới: Trầm tích thời gian. Đây là tập thơ thứ 9 của chị, gồm 62 bài được viết từ cuối tháng 5/2020, hoàn chỉnh bản thảo tại Trại sáng tác Đà Nẵng do Hội Nhà văn Việt Nam tổ chức tháng 4/2025, sau các tập: Trái muộn (1991); Quê với mẹ và anh (1996), Bình minh muộn (2002); Vọng về xứ Phuống (2006); Con sóng khát (2009); Mùi tuổi (2015); Tìm trầm (2020), Vân Anh tuyển tập thơ (2023) và 2 tập: Ước nguyện cuối cùng (truyện ký 2005), Tập Văn chương và cảm nghĩ (tiểu luận và phê bình, 2014). Đó là chưa kể gần chục tập thơ khác in chung trong vai trò chủ biên hoặc tham gia biên soạn.
Ở tuổi U80, qua tập thơ, vẫn là một Vân Anh đầy cảm xúc, đam mê, nhạy cảm với cuộc sống, con người, đồng thời cũng có những nét biến đổi so với trước: tiếng thơ dường như trầm tĩnh hơn, có chiều sâu hướng nội, với nhiều suy tư sâu sắc, những đúc kết, chiêm nghiệm về lẽ đời, được mất, về giá trị cuộc sống giữa dòng trôi chảy tàn phá của thời gian.
Cũng như trong một số tập thơ trước đó, thơ tự do vẫn chiếm tỉ lệ cao trong Trầm tích thời gian, với 38/62 bài (61,2%). Dường như với thể loại này, tiếng thơ Vân Anh mới có thể nới tung các chiều kích suy tư và lắng lại trong cảm xúc, chiêm nghiệm. Khá nhiều bài trong tập là những xúc cảm về quê hương, về lịch sử, về mảnh đất miền Trung, mảnh đất xứ Nghệ gian khó và chứa trong mình nhiều trầm tích của một vùng đất thiêng (Thức cùng hào khí Sông Lam, Đất và người miền Trung, Xứ Nghệ, Trầm tích lịch sử,…). Những bài thơ này thường kết hợp chiều sâu triết lý, suy tưởng với những hình ảnh thơ có sức gợi:
"Đất Miền Trung cằn khô cong đòn gánh oằn gánh hai đầu Tổ quốc.
Cơn thịnh nộ thiên nhiên bốn mùa giáng xuống
Nắng hạ đốt cháy đồng gió Lào uống cạn sông".
(Đất và người Miền Trung)
"Xứ Nghệ...
Cho tôi câu thơ quăng quật kiếp người. Những đứa trẻ đẻ rơi
Co ro trên luống cày
vừa xới hình hài cong dấu hỏi oà nỗi đau chào đời".
(Xứ Nghệ)
Bài "Xứ Nghệ" kết lại bằng mấy câu thơ thật giản dị, như lời nói thường thốt ra nhưng cũng là những lời gan ruột: "Giữa bầu trời giông bão vô thường/ Người Xứ Nghệ - chim Phượng Hoàng bốn phương sải cánh/ Nếu có kiếp sau/ Ta lại về Xứ Nghệ đầu thai".
Cùng với cảm xúc về quê hương là những cảm xúc về văn hoá, về văn chương, về các danh nhân, thi sĩ (Hiền nhân hiển thánh, Lỗi nhịp thời gian, Vọng lời thi nhân, Tưởng nhớ thi nhân, Pushkin trong tâm hồn tôi,…). Không phải ngẫu nhiên mà điệu ví giặm thường được chị nhắc đến, bởi "Hồn ví giặm chở ta về quá vãng/ Câu đò đưa lắng ngọt vị hồn quê"; " Con thuyền ví giặm đầy vơi/ Chở mai sau cập về nơi cội nguồn". Khi nhắc đến các thi nhân, câu thơ thường lắng lại, đượm một chút ngậm ngùi: "Nỗi đau mưu sinh/Nỗi đau chiến tranh/ Cứa vào trái tim thi nhân" (Trầm tích lịch sử). "Vọng lời thi nhân" chính là tiếng lòng cất lên từ trái tim nhạy cảm:
"Uyên thâm chi lắm, Người ơi!
Cánh đồng Tiếng Việt một đời bón chăm.
"Hai trăm năm thế sự lở bồi
Nàng đứng đó giương cao tuyên ngôn đòi "đổi phận" Nàng mê mải tấu khúc bình quyền, bình đẳng
(Lỗi nhịp nhân gian)
"Trầm tích thời gian" có khá nhiều bài thơ mang màu sắc tự bạch, tự vấn, suy ngẫm (Khám phá, Không đề, Biên niên ta, Tự ru, Cài đặt lại ta,
Ngụ ngôn cho mình, Giọt trầm tư, Ngẫm, Bản ngã). Thơ Vân Anh đã nối mạch thơ của thi nhân nhiều thế hệ khi khắc khoải câu hỏi "Ta là ai?". Nhà thơ Chế Lan Viên từng viết: "Ta là ai?" như ngọn gió siêu hình/ Câu hỏi hư vô thổi nghìn nến tắt/ "Ta vì ai?" khẽ xoay chiều ngọn bấc/ Bàn tay người thắp lại triệu chồi xanh". Thơ Vân Anh cũng luôn đặt ra câu hỏi: Ta là ai? Ta đến từ đâu? Ta phải sống thế nào? Và từ những câu thơ tự vấn đó, người ta thấy một Vân Anh với nhiều đối nghịch: yếu đuối và mạnh mẽ, phủ định và khẳng định, âu lo và tự tin, chán nản và hy vọng:
"Ta tìm Ta
Giữa bí hiểm vũ trụ thiên hà gặp Ta phiêu bồng khát sống Ta tìm Ta
Giữa gập ghềnh nhân thế"…
(Ngụ ngôn cho mình I)
"Ta là Ta, là duy nhất
tự mình thảnh thơi và tất bật
tự mình đong đếm được mất Tự mình toả sáng và lụi tắt"…
(Bản ngã)
Ta nghe như bắt gặp ý thơ của Xuân Diệu thủa nào trong bài Hy Mã Lạp Sơn: "Ta là Một, là Riêng, là Thứ Nhất/ Không có chi bè bạn nổi cùng ta". Tuy nhiên, từ tiếng nói tuyên ngôn của "thời đại cái tôi" trong thơ Xuân Diệu đến lời tuyên ngôn khẳng định bản ngã trong thơ Vân Anh là một quãng thời gian dài vận động của cái tôi giữa bao biến động của xã hội.
Và để tự an ủi mình, chị lại tìm đến văn chương, tìm đến thơ. Trước đây, chị từng có câu thơ tự vẽ chân dung thi sĩ của mình: "Trái tim cô đơn từ muôn kiếp trước/ Tâm hồn khao khát đến muôn kiếp sau/ Đa tình bẩm sinh trong máu/ Khâu buồn làm áo che thân" (Chân dung tự hoạ). Giờ đây, chân dung ấy lại có thêm nét mới: Nhà thơ phải là người biết sẻ chia, biết đau nỗi đau của kiếp người, của chúng sinh. Trước cái chết của một em học sinh sau khi bị bạo lực học đường, chị viết:
"Vắt giọt thương từ trái tim làm mẹ
Vần thơ ứa giọt đau buồn!"
(Dâng nữ sinh khép lại tuổi 17)
Và:
"Thơ như sóng khát một đời
Vỗ bờ nhân thế, mát lời thiện lương"
(Gom thi hứng)
"Ta muốn sống như chưa hề được sống, bao dung, chia sẻ, yêu thương...
Ta muốn sống như là ngày tận thế,
khát vọng dâng trào, thăng hoa đam mê"...
(Tự bạch II)
Thơ Vân Anh thường nói đến đức tin: "Lạc Đức Tin/ Ta sẽ là con thú hoang sống giữa rừng nhân thế/ Ta sẽ là con cá dữ sống giữa đại dương nhân thế/ Đức Tin/ nguồn siêu năng lượng/ nạp cho ta sống kiếp Làm Người" (Đức tin). Một bản lĩnh sống tự tin hiểu người, biết mình, một tâm hồn có đức tin dẫn lối, một trái tim thi nhân nhạy cảm biết đau nỗi đau nhân thế; tôi nghĩ đó là cơ sở, chiều sâu phía sau của một hồn thơ.
Xin trân trọng giới thiệu tập thơ cùng bạn đọc!