Từ: Kieu Bich Hau <kieubichhau@gmail.com>
Date: 16:55 T.6, 21 Th10, 2022
Subject: bản dịch tiếng Anh bài thơ "Lỗi nhịp nhân gian"
To: Van Anh Nguyen Thi <nhathovananh@gmail.com>
Kiều Bích Hậu (Writer - Translator - Journalist)
0947 358. 999 (mobile)
Trang chủ của nhà thơ Vân Anh
Khâu buồn làm áo che thân
(Đọc Trầm tích thời gian, tập thơ của Vân Anh, NXB Nghệ An, 2025)
HOÀNG ĐĂNG KHOA
1. Nỗi buồn từ lâu vốn là một hằng số của thi ca; trong thơ nữ Việt Nam đương đại, nó còn mang chức năng nhận thức, trở thành phương tiện tự sự để phơi bày và kiến tạo chân dung tinh thần giới nữ. Trong Trầm tích thời gian, Vân Anh thực hành thao tác thẩm mĩ chủ đạo: "khâu" nỗi buồn lại để cấu tạo bản thể thi sĩ đồng thời công bố một diễn ngôn nhân văn về lịch sử và thân phận.
Vân Anh viết:
Trái tim cô đơn từ muôn kiếp trước
tâm hồn khao khát đến muôn kiếp sau
đa tình bẩm sinh trong máu
khâu buồn làm áo che thân
(Chân dung tự họa)
"Khâu buồn làm áo che thân" - câu thơ như một tuyên ngôn thi ca, cũng là một triết lí sống. Nỗi buồn - vốn dễ bị xem là gánh nặng tâm lí, là yếu đuối uỷ mị - trong thơ Vân Anh lại trở thành chất liệu sáng tạo, thành tấm áo vừa để bảo bọc vừa để hiển thị bản ngã. Câu thơ ấy cũng có thể xem như chìa khóa thông mở vào thi giới Trầm tích thời gian - tập thơ thứ chín của chị, nơi hội tụ hơn sáu thập kỉ nữ thi sĩ đắm mình trong chữ nghĩa, với bao lớp "trầm tích" của đời sống, kí ức, nhân sinh, lịch sử.
Nhà thơ ở tuổi gần tám mươi, sau khi đi qua biết bao biến động đời người và nhân thế, không chọn tiếng cười mà vẫn chọn nỗi buồn. Nhưng đó là một nỗi buồn đã được "khâu" lại, nghĩa là đã qua tay nghề của kinh nghiệm, của chiêm nghiệm, của thi ca. Nó không còn rời rạc, vụn vỡ, mà trở thành một tấm áo tinh thần để chị khoác lên mình, bước đi giữa nhân gian.
2. Đọc Trầm tích thời gian, ta bắt gặp nhiều lần nhà thơ tự vấn, nhiều cuộc nhà thơ tự tìm mình. Những câu hỏi như "Ta là ai? Ta đến từ đâu? Ta phải sống thế nào?" từng ám ảnh bao thế hệ triết gia - thi sĩ, nhưng trong giọng thơ của Vân Anh, nó nhuốm màu của một người đàn bà từng trải, đa sự: yếu đuối và mạnh mẽ, chán nản và hi vọng, phủ định và khẳng định, âu lo và tự tin.
Ở một bài khác, chị viết:
Ta là ta, là duy nhất
tự mình thảnh thơi và tất bật
tự mình dối trá và chân thật
tự mình quẳng đi và gom nhặt
tự mình đong đếm được mất
tự mình toả sáng và lụi tắt…
(Bản ngã I)
Đây là dạng cái tôi hiện sinh mang đậm sắc thái nữ quyền: vừa tự phủ định vừa tự khẳng định, cho thấy một ngã thể đàn bà vừa dằn vặt vừa kiêu hãnh. Thơ, với Vân Anh, chính là cách "khâu buồn" - tức là nắm giữ, sắp đặt, chắp nối lại những mảnh vỡ tự thân để thành nhân vị và nhân dạng riêng mình.
3. Thơ Vân Anh có nhiều lớp nỗi buồn. Đó là nỗi buồn thân phận đàn bà:
Những người đàn bà goá
cô đơn thiêu đốt thịt da
đổ lúa ra xay
đổ trấu ra xay
xay cạn đêm...
(Xứ Nghệ)
Hình ảnh những góa phụ cháy dọc mùa đông/ trằn trọc lửa củi sim gợi một nỗi cô độc thấm vào thân xác. Nỗi buồn ở đây không chỉ mang tính cá nhân mà còn là nỗi chung của bao thế hệ phụ nữ trong vùng đất khắc nghiệt.
Cùng lúc, có nỗi buồn lịch sử, gắn liền với quê hương, với chiến tranh, với thân phận dân tộc. Trong Trầm tích lịch sử, Vân Anh viết:
Nỗi đau mưu sinh
nỗi đau chiến tranh
cứa vào trái tim thi nhân
nhả ngọc thi ca...
Ở đây, thơ Vân Anh là một diễn ngôn kí ức, nơi nỗi buồn cá nhân tan chảy vào kí ức tập thể của cả một vùng văn hóa. Nhà thơ run rẩy đa mang gánh nỗi buồn của cộng đồng; nhờ thế, tiếng thơ chị gắn kết sâu với những bi tráng của lịch sử vùng miền.
4. Nếu nỗi buồn chỉ dừng ở than thở thì sẽ thành vô nghĩa. Vân Anh "khâu buồn" không phải để giữ cho riêng mình, mà để nó trở thành áo, tức là một lớp che chở và cũng là biểu hiện ra bên ngoài. Bằng cách đó, buồn trong thơ chị biến thành một hình thức "sẻ chia".
Thử đọc những câu thơ chị viết cho nữ sinh bị bạo lực học đường:
Vắt giọt thương từ trái tim làm mẹ
vắt giọt sẻ chia từ trái tim thi sĩ
vắt giọt ăn năn của lương tri
dâng Em
vần thơ ứa giọt đau buồn
(Dâng nữ sinh khép lại tuổi 17)
Đây là một ví dụ tiêu biểu của "khâu buồn": từ một bi kịch riêng, nhà thơ kết dệt nên tấm áo của nhân quần, trong đó mỗi sợi chỉ dệt từ "giọt thương", "giọt sẻ chia", "giọt ăn năn". Nỗi buồn không còn đơn độc, mà mở ra chiều kích nhân loại, nhân văn.
Cũng vậy, trong bài Lời ru mùa đại dịch, viết cho một em bé chỉ mười ngày tuổi trên đường hồi hương bằng xe máy, buồn lại trở thành ru, thành giấc ngủ lành:
À ơi
em ngủ cho ngoan...
mai sau đọc vần thơ lưu giữ ngày đại dịch
em lại làm một Ông Bụt hiền lương
Đây là sự dịch chuyển từ nỗi buồn cá nhân sang nỗi buồn tha nhân, khi thơ trở thành nơi cất giữ và lan tỏa những thương tổn xã hội.
5. Một mạch quan trọng trong thơ Vân Anh là "đức tin". Trong bài Đức tin, chị khẳng định:
Lạc Đức Tin
ta sẽ là con thú hoang sống giữa rừng nhân thế
ta sẽ là con cá dữ sống giữa đại dương nhân thế
Đức Tin
nguồn siêu năng lượng
nạp cho ta sống kiếp Làm Người
Ở bình diện mĩ học, "đức tin" trong thơ Vân Anh không phải niềm tin tôn giáo thuần tuý mà là niềm tin thế tục (secular faith), một "nguồn siêu năng lượng" giúp thi sĩ giữ thế cân bằng giữa bi kịch và khát vọng vượt thoát. Nhờ đức tin, nỗi buồn không biến thành tuyệt vọng, mà trở thành động lực để tiếp tục "sống", tiếp tục yêu thương. Ở đây, áo buồn không chỉ là tấm che chở, mà còn là y phục của niềm tin - một thứ áo giáp tinh thần để con người có thể đi qua giông bão.
6. Trong Trầm tích thời gian, Vân Anh chủ yếu viết thơ tự do, bên cạnh đó có nhiều bài lục bát, song thất lục bát, thậm chí những biến thể hiện đại. Dù ở thể loại nào, "khâu buồn" cũng là một thao tác thẩm mĩ: chọn lọc, sắp đặt, biến những trải nghiệm đau thương thành vần điệu.
Chẳng hạn, bài Sẹo buồn ngắn gọn mà gợi ám ảnh:
Nhành thu rơi vào tim nhớ
thắp lửa tình xưa vào thơ
...
sẹo buồn trở trời nhức mỏi
hoài niệm sao bỗng mọc chồi
Hình tượng "sẹo buồn" là một kiểu thẩm mĩ hóa thân thể, nơi cơ thể trở thành văn bản lưu giữ kí ức. "Sẹo buồn trở trời nhức mỏi" đồng nghĩa với nỗi buồn không biến mất, mà hoá thành kí ức sống động, nguồn thi liệu ấm nóng.
7. Không ít bài trong tập thơ gắn liền với quê hương xứ Nghệ, nơi vừa khắc nghiệt vừa giàu hào khí. Vân Anh viết:
Đất miền Trung cằn khô cong đòn gánh
oằn gánh hai đầu Tổ quốc
...
người miền Trung
mười ngón chân hoá rễ cây bám đất
mười ngón tay hoá cành lá hút cạn Mặt Trời
(Đất và người miền Trung)
Qua hình tượng đất và người miền Trung, thơ Vân Anh khẳng định mã địa văn hóa đã định hình căn tính sáng tạo của chị. Buồn vì thiên nhiên khắc nghiệt, vì bao đời lam lũ, nhưng đồng thời lại là niềm kiêu hãnh, niềm tự tôn. Khi "khâu buồn" vào thơ, chị cũng đồng thời khâu vào đó tinh thần bất khuất, sức sống vươn lên từ sỏi đá.
8. Trầm tích thời gian có nhiều bài như là những diễn ngôn triết học thi ca, chẳng hạn Cài đặt lại ta, Tự ru, Ngẫm… Ở đó, nỗi buồn trở thành phương tiện nhận thức:
Tự mình chưng cất vần thơ
ngọt cay độc ẩm, bao giờ hết say?
(Tự ru)
"Say" ở đây không chỉ là say rượu hay say tình, mà còn là say nỗi buồn. Thi sĩ uống nỗi buồn, "chưng cất" nó thành ngôn từ. Bởi vậy, "khâu buồn làm áo che thân" cũng có nghĩa: biến buồn thành tác phẩm, thành tự ngã được lưu giữ trong thi ca.
9. Câu thơ "khâu buồn làm áo che thân" không chỉ là một lời tự họa. Nó đã trở thành không khí bao trùm của Trầm tích thời gian. Vân Anh đã cho thấy rằng nỗi buồn - vốn thường bị gạt ra ngoài - thực chất là một dạng năng lượng tinh thần. Khâu buồn tức là biến năng lượng ấy thành hình thức, thành y phục, thành cõi riêng, tức là "lộ thiên trầm tích Ta", như câu thơ chị viết trong bài Ngụ ngôn cho mình I.
Ở tuổi gần tám mươi, nhà thơ không còn viết để chinh phục hay để nổi loạn, mà viết để lưu lại chứng tích sống, để nới giãn hữu hạn thời gian đời người, để độ lượng với chính mình, để thoả hiệp với chiêm mộng nhân sinh.
Và có lẽ, khi khép lại tập thơ, mỗi độc giả cũng thấy mình mặc trên người một tấm áo thi ca - chiếc áo của nỗi buồn đã được khâu lại bằng sợi chỉ của đức tin, của nỗi thèm yêu khát sống.
Như vậy, "khâu buồn làm áo che thân" là ẩn dụ trung tâm cho thi giới Vân Anh, đồng thời góp thêm một tiếng nói thơ giàu bản sắc vào dòng thơ nữ Việt Nam đương đại. Đọc Trầm tích thời gian, củng cố ở người đọc xác tín: từ khởi thuỷ đến tận thế, thơ luôn là một liều cứu rỗi. Như nhà thơ người Hungary Sándor Halmosi từng viết:
Thiên thần buông tay
Bài thơ thì vẫn nắm chặt lấy.
SỰ VẬN ĐỘNG TRONG PHONG CÁCH NGHỆ THUẬT THƠ
NGUYỄN THỊ VÂN ANH
Nhà thơ Nguyễn Thị Vân Anh (Vân Anh) là một trong những gương mặt tiêu biểu của Thơ Nghệ An từ sau năm 1975. Cho đến nay, bà đã xuất bản 11 tập thơ (in chung, riêng), và nhận được nhiều giải thưởng quan trọng của trung ương cũng như địa phương. Năm 2023, trong khuôn khổ chương trình Nhà nước đặt hàng của tỉnh Nghệ An, Tuyển tập thơ Vân Anh đã ra mắt bạn đọc. Đến nay, bà vẫn miệt mài sáng tác và công bố nhiều tác phẩm gây ấn tượng. Có thể nói những sáng tác của nữ sĩ trong gần năm mươi năm qua đã thực sự định hình được một phong cách, mà những nét đặc trưng trong đó cần được nghiên cứu một cách hệ thống.
Việc tìm hiểu sự vận động trong phong cách nghệ thuật của nhà thơ Vân Anh thiết nghĩ cũng là một cách để ban đầu có thể nhận diện, đánh giá sự nghiệp sáng tác của một gương mặt thơ tiêu biểu trong tiến trình phát triển chung của thơ ca Nghệ An hiện đại. Tác giả bài viết tạm chia hành trình sáng tác của bà thành hai giai đoạn: Từ năm 1980 đến năm 2005 và từ năm 2005 đến nay. Sự phân chia này chỉ mang tính tương đối, để thuận lợi hơn cho việc tìm hiểu vấn đề mà bài viết đặt ra. Trong phạm vi một bài viết, tác giả chỉ điểm qua những đặc điểm của thơ Vân Anh giai đoạn trước năm 2005 và chú trọng hơn ở giai đoạn sau đó. Phong cách nghệ thuật của bà dĩ nhiên là được định hình từ trước, nhưng từ sau năm 2005 có lẽ là giai đoạn mà những sáng tác của bà mới thực sự làm nên một phong cách riêng, khắc hoạ nên một gương mặt thơ cá tính như bạn đọc từng biết đến.
1. Sự vận động trong việc tiếp cận, khai thác đề tài
Khảo sát những tập thơ của Vân Anh, ta thấy bà làm thơ trên nhiều đề tài, kể cả những đề tài mang tính chất "đặt hàng", có tính phong trào, thời sự, bà vẫn có một lối viết không dễ dãi, với những cảm xúc từ đáy lòng. Tuy nhiên, cách tiếp cận và khai thác đề tài trong thơ bà cũng có những vận động riêng trong chặng đường sáng tác gần 50 năm qua. Với những tập thơ ở giai đoạn trước năm 2005 như Hương thơm cỏ vắng (in chung, 1987), Trái muộn (1991), Quê với mẹ và anh (1996), Bình minh muộn (2002), người đọc có thể gặp nhiều bài thơ hay, đậm chất trữ tình khi viết về các đề tài như quê hương (Mùa ngô, Thổn thức một vùng quê, Hồn quê, Quê với mẹ, Thơ viết cho một người…), gia đình (Chia đôi, Lời ru trong mộng, Thương con, Hình dung về mẹ…), tình yêu đôi lứa (Đợi, Vĩnh hằng, Tự bạch, Eva ru mình, Hồi sinh, Thơ viết những ngày xa)…
Nhưng phải đến những tập thơ: Vọng về xứ Phuống (2006), Con sóng khát (2009), Mùi tuổi (2015) và đặc biệt là tập thơ Tìm trầm (2020), thơ Vân Anh mới thực sự có những chuyển biến rõ nét, đặc biệt là độ chín, độ lắng trong việc tiếp cận với những đề tài vốn không mới - những đề tài mà bà đã từng có những gặt hái đáng kể.
Vẫn tiếp tục mạch cảm hứng về đề tài quê hương, đất nước, nhưng một Việt Nam, một xứ Nghệ, một xứ Phuống - nơi chôn rau cắt rốn của bà giờ đây lại hiện ra ở một dáng hình mới, với một cảm thức mới, trong một bút pháp đã có sự vận động. Với những bài thơ như Tổ quốc, Xứ Nghệ, Trước ngôi nhà lịch sử, Thơ tình mùa thu viết trước đền Chín gian, Đất và người miền Trung, Thức cùng hào khí sông Lam, Gieo gặt cùng Nhân dân… Vân Anh đã thực sự ghi những dấu ấn đặc biệt của mình ở đề tài này. Bà viết về xứ Nghệ đầy tự hào, nhưng cũng đầy xót xa: "Nơi hai dòng chảy Văn chương dân dã, bác học hợp lưu/ Nơi chưng cất tinh túy cốt cách Cụ Đồ/ thẳng ngay thuở khai thiên thông reo Ngàn Hống/ Miên miết mạch ngầm hiếu học xưa xửa dòng Rum/Xứ Nghệ cho tôi câu thơ quăng quật kiếp người" (Xứ Nghệ); nhiều âu lo, trăn trở: "Đêm cạn năm/thức cùng "Hào khí sông Lam"/…/Bài toán nào cộng bao nhiêu dâng hiến? Cộng đúng bao nhiêu tổn thất hi sinh/Giành giật cho giang sơn từng tấc đất/Có cách nào quyết toán giá hòa bình?!" (Thức cùng hào khí sông Lam)... Đất nước, quê hương trong thơ bà giai đoạn này không chỉ hiện ra trong dáng vẻ hiền hòa thơ mộng, trong kí ức êm đềm của tuổi thơ, trong thế dáng kiên cường, bất khuất… Đất nước là giọt đau thấm đến tận cùng, được "xây bằng kí ức bi thương và ngưỡng vọng của đồng đội/xây bằng hao khuyết cuộc đời người thân/ Giọt đau đong đầy/chảy vẹt bình minh/chảy mòn hoàng hôn…" (Giọt đau). Những bài thơ, những câu thơ như vậy rõ ràng là được viết ra bằng độ lắng chín của tư duy nghệ thuật, bằng những trải nghiệm của đời người, bằng những âu lo, trăn trở và đặc biệt là bằng cảm thức sâu sắc về lịch sử, về văn hóa.
Ngay cả khi viết về đề tài vĩ nhân, viết về các nhân vật lịch sử, về danh nhân văn hóa… một mảng đề tài mà khi viết dễ rơi vào lối sáo mòn của tụng ca, ngưỡng vọng, nhà thơ Vân Anh vẫn tìm cho mình được một góc tiếp cận riêng, không lặp lại chính mình và không đi lại lối mòn của người khác. Trước những năm 2005, bà đã có bài thơ viết về đề tài này như bài Thầy giáo Nguyễn Tất Thành,… nhưng phải đến giai đoạn sau, nữ sĩ mới thực sự có được những bài thơ ấn tượng như Giấc mơ Tháng 5, Tướng Giáp về quê, Đoản khúc viếng cụ Lương Khê, Nhớ cụ Nguyễn Du, Puskin trong tâm hồn tôi… Khi viết về đề tài này, nhà thơ rất ít sử dụng những ngôn từ mang tính chất tô điểm với mục đích để ngợi ca, tôn vinh như thường thấy; bà luôn có ý thức tìm tòi một lối kiến giải riêng, chú trọng tới những tình tiết nhỏ, nhưng thể hiện được lối ứng xử của nhân vật trước hoàn cảnh lịch sử, trước thời đại, từ đó làm nổi bật tầm vóc của các bậc vĩ nhân. Bà viết về Đại tướng Võ Nguyên Giáp: "Những năm tháng cheo leo/ Lịch sử đi trên dây, dân chưa thoát đói nghèo/ Người trầm tĩnh đi vòng… Vượt thác" (Tướng giáp về quê); viết về Bác Hồ: "Người về chiến khu/Trăng Nguyên tiêu vành vạnh kí ức/Hằng đêm thao thức/ Tóc đổi màu trước mỗi bình minh" (Giấc mơ Tháng 5). Với một cách tiếp cận như vậy, từ sau năm 2005, Vân Anh cũng đã thực sự ghi được những dấu ấn riêng trong tác phẩm của mình và để lại những ấn tượng khó quên trong lòng bạn đọc, ở một đề tài mà đã có quá nhiều những cây bút tên tuổi viết thành công.
Với những người làm thơ, nhu cầu nguyên thủy nhất có lẽ vẫn là nhu cầu được bày tỏ, chia sẻ nỗi niềm, cảm xúc cá nhân thông qua một thứ ngôn ngữ đặc biệt - ngôn ngữ thơ. Thơ của nữ sĩ Vân Anh cũng không nằm ngoài thuộc tính đó. Tuy nhiên, khảo sát các tập thơ của bà từ sau những năm 2005, dễ nhận thấy rằng mối quan tâm của bà giờ đây không đơn thuần là những cảm xúc, những trải nghiệm mang tính cá nhân gắn với những trạng huống, hoàn cảnh cụ thể. Ngòi bút thơ Vân Anh ngày càng mở rộng biên độ, bà quan tâm nhiều hơn đến những vấn đề mang tính lịch sử - xã hội, những vấn đề thuộc về thân phận con người. Đúng như nhà thơ Nguyễn Quang Thiều đã nhận xét "Tất cả những gì chứa đựng trong những câu thơ của chị không phải chỉ nói về những riêng tư của chị, mà qua chị để nói về bao con người và nói về dân tộc này trong thời đại chị sống". Đọc những bài thơ của bà, đặc biệt ở giai đoạn sau, rất dễ nhận ra rằng bà quan tâm sâu sắc đến thân phận của nữ giới, mà cụ thể là những nỗi đau mang tính nữ, khát vọng mang tính nữ.
Từ sau những năm 2005, Vân Anh quan tâm nhiều hơn đến mảng đề tài chiến tranh, nhưng vấn đề mà bà quan tâm hơn cả, thấu cảm hơn cả vẫn là nỗi đau, nỗi mất mát mà người phụ nữ phải gánh chịu bởi chiến tranh. Đó là "nỗi cô đơn thiêu đốt thịt da" của người góa phụ (Xứ Nghệ), là dằng dặc đợi chờ trong tuyệt vọng "Những ai…/trong một gia đình/đàn ông rủ nhau ra trận/lần lượt trở về sau di ảnh/ Những ai/ dằng dặc đời thiếu phụ/chờ hóa đá vọng phu?..." (Trước ngôi nhà lịch sử); là vin vào nỗi đau mà đứng dậy kiêu hùng "Nhớ/Bát cơm ăn/trộn giọt buồn của Mẹ/ngày đón cha về sau di ảnh…/Nhớ tấm áo mặc/Khâu sợi đau của bà/không làm vọng phu hóa đá/về nuôi tằm kéo tơ/dệt cho ta mơ ước…" (Vọng lời ví giặm)… Vậy nên bà thấu hiểu, thấm thía vô cùng những hi sinh to lớn, những khát vọng bình dị của đàn bà: "Trải trường chinh giữ nước/Tình yêu của đàn bà/Bom đạn của chiến tranh/cùng vào trận! Hãy tặng đàn bà/ Bình yên!" (Đàn bà và chiến tranh).
Vân Anh cũng có nhiều bài thơ hay về mẹ, nhưng càng về giai đoạn sau, khi viết về mẹ, nghĩ về mẹ, thơ bà không đơn thuần sử dụng mẫu số chung khi viết về mẫu hình này như lòng biết ơn, nỗi nhớ thương vô bờ đối với đấng sinh thành khi họ đã đi xa, như bà cũng đã từng viết trước đó (Mười năm mẹ đi xa). Từ những năm 2006, nữ sĩ có những bài thơ sâu sắc, đầy ám ảnh khi viết về mẹ như: Chân dung, Nhớ mẹ I, Chớm một kiếp người, Hình dung về mẹ, Viết cho con lúc này… Có những câu thơ viết về mẹ, giản dị thôi, nhưng xúc động đến sâu xa: "Mẹ ơi/Con bơi qua ba mươi sáu bến sông/mỗi lần trái tim đàn bà bị xé rách/ Mẹ xốc nách/ Về thôi! Mẹ giúp con liền sẹo" (Nhớ mẹ I), "Mẹ dắt con khỏa dòng Lam/Mát lành như sữa/Kì cọ bụi vô thường" (Nhớ mẹ II). Đó không đơn thuần là mẫu người mẹ truyền thống: Chịu thương chịu khó, giàu lòng hi sinh, yêu thương con vô điều… Đó còn là người mẹ thấu trải, yêu con bằng tất cả sự trải nghiệm và nỗi đau đàn bà. Người mẹ biết chữa lành. Người mẹ biết xoa dịu. Và đến lượt mình làm mẹ, bà cũng như vắt kiệt đời mình để nói với con, viết cho con: "Viết cho con vần thơ này/ Là vắt bao giọt đắng cay cuộc đời" (Viết cho con lúc này). Một cách tiếp cận với đề tài như vậy đã thực sự làm nên những vỉa tầng mới trong thơ của Vân Anh ở giai đoạn sau.
Nói về khát vọng mang tính nữ, ở giai đoạn sau, bà cũng có nhiều bài thơ hay về chủ đề này. Nữ sĩ từng tự hoạ về mình: "Trái tim cô đơn từ muôn kiếp trước/ Tâm hồn khao khát đến muôn kiếp sau/ Đa tình bẩm sinh trong máu/Khâu buồn làm áo che thân" (Chân dung tự họa). Quả đúng như bà đã bộc bạch, đọc thơ bà rất dễ nhận ra, đằng sau những bài thơ là một tâm hồn khát khao giao cảm mãnh liệt với cuộc đời: Khát khao được yêu (Khác lạ, Sự tích đời ta, Tự đến, Ước…), khát khao được dâng hiến (Dâng hiến, Đánh thức), khát khao được tái sinh (Độc thoại trước biển, Trầm tích của ngày, Đứng trước tuổi mình, Bản nháp), khát khao gặp tri âm (Đồng dao kiếp người, Lạc loài)… Là nhà thơ viết nhiều về khát vọng mang tính nữ, như một lẽ tự nhiên, bà đồng cảm, tri âm sâu sắc với nữ sĩ Hồ Xuân Hương "Nàng là ai/Dám xé toạc bịt bùng lễ giáo/Lột áo dối hèn "hiền nhân, quân tử"/ Nude khát thèm tình yêu lứa đôi" (Lỗi nhịp nhân gian); chia sẻ sâu sắc với tình yêu ngang trái của của nàng Mỵ Châu "Nén nhang bảng lảng niềm đau/ Tri âm xin gửi vào câu thơ buồn" (Mỵ Châu). Bà cũng có những câu thơ ăm ắp về khát vọng bản thể, những câu thơ mang tâm thức hiện sinh: "Nơi ấy/ Người đã đợi/ Mà ta không tới/Lành lặn áo đồng trinh/Căng mẩy/ Một miền xưa" (Hoài niệm) hay "Ta cùng nàng Xỉ Đả giáng trần sống thử kiếp người/Ngực ta đơm căng phồn sinh Chín Mường ngóng đợi/ Vòng tay người hồng hoang thác Bảy tầng ào ạt cuồng mê/ Thỏa khát khao nhau tắm tiên thác Xao Va hạ về/ Lên núi Pù Kẹp uống đắm đuối trăng thu vàng óng những giọt mật tình ngang trái…" (Thơ tình mùa thu viết trước đền Chín gian). Những bài thơ như Mùa tuổi, Mùa hương trinh nữ, Viết trước chùa Giải Oan, Cơn khát hoang sơ, Gửi thiên sứ… đều là những bài thơ được viết với tâm thế như vậy. Có thể nói rằng Vân Anh là nhà thơ luôn có ý thức tìm tòi, sáng tạo, vận động để tự làm mới cảm xúc, làm mới tác phẩm của mình.
Và cả niềm đau, những nông nổi, lầm lạc, cô đơn, sự tổn thương… của đàn bà cũng được nhà thơ thể hiện một cách sắc sảo mà tinh tế; đầy gai góc, triết lí mà cũng thật đằm thắm, giàu nữ tính trong nhiều bài thơ. Là phụ nữ làm thơ, bà thấu hiểu đến tận cùng trái tim của người phụ nữ, nói lên được tiếng nói nơi vùng sâu thẳm nhất của người nữ: "Mẹ dạy con chín mươi chín điều hay/Điều thứ một trăm không dạy nổi/Trái tim đàn bà/hễ đi là lạc lối" (Nhớ mẹ). Vân Anh cũng không ưa những gì "bão hòa", "khuôn mẫu", "đồng phục", "nhạt nhòa" (chữ dùng trong bài thơ Trăn trở II)… bà thường đi đến tận của cùng cảm xúc: Tận cùng đắm say (Ám ảnh, Sợ, Vĩnh hằng, Trinh nguyên…), tận cùng đau khổ (Hỏi người, Chia tay một cuộc tình…), tận cùng của cô đơn (Lục bát mùa thu, Kí ức buồn, Tự cảm, Sóng chinh phạt, Lạc loài, Eva ru mình…), tận cùng của thất vọng (Số không, Viết cho con lúc này)... Cũng vì vậy mà trong thơ bà xuất hiện khá dày đặc những từ ngữ chỉ cảm giác mạnh, với giọng thơ sắc sảo, khí chất, đầy cá tính. Điều này đã tạo ra một đặc điểm rất riêng trong phong cách ngôn ngữ thơ Vân Anh, mà trong khuôn khổ nội dung bài viết này, người viết cũng chưa có điều kiện để bàn luận sâu.
Với cách tiếp cận đề tài như vậy, như nữ sĩ đã từng phát biểu, thơ bà là tiếng nói của "nhu cầu tự thân do phụ nữ xác tín về sự bức thiết bình đẳng, chứ không phải là thứ bình đẳng mà đàn ông ban cho". Đó là cái tôi cá nhân có ý thức sâu sắc về bản ngã, dám bày tỏ, không ngại đối thoại, đối diện. Đó là tiếng nói của tâm tư, của khát vọng nữ giới thành thực, mang tính nhân văn, có cội rễ từ truyền thống, nhưng mang đậm dấu ấn cá nhân của người viết. Đây cũng là một trong những yếu tố góp phần làm nên phong cách của nhà thơ Vân Anh.
Tóm lại, sự vận động trong việc tiếp cận đề tài ở thơ Vân Anh là một biểu hiện của cảm thức mới trong nghệ thuật, là cách để nhận diện sâu sắc hơn về truyền thống, về văn hóa, về lịch sử và con người. Thơ bà đã thực sự góp thêm một tiếng nói không mờ nhạt trong hợp âm của thơ nữ hiện đại, trong xu trào vận động rất tự nhiên, với khuynh hướng dân chủ hóa của thơ ca Việt Nam nói chung ở giai đoạn từ năm 1986 đến nay.
2. Ngôn ngữ thơ vận động, chuyển dịch dần sang tính đa thanh
Ở giai đoạn đầu, thơ Vân Anh mang màu sắc lãng mạn, đằm thắm, nhẹ nhàng, với ngôn ngữ trong sáng, trữ tình. Bà cũng có khá nhiều bài thơ hay viết theo thể thơ lục bát truyền thống trong giai đoạn trước năm 2006 (Mùa ngô, Gặp lại, Thương con, Băn khoăn, Thơ viết cho một người, Viết cho bạn cũ, Cổ tích viết lại, Nhớ Hương Sơn…). Không có khó khăn gì trong việc tiếp cận và thưởng thức những bài thơ viết về bất cứ đề tài nào của bà ở thời kì này. Những bài thơ với ngôn từ trong sáng, giản dị, dễ tiếp nhận cũng từng làm nên một hồn thơ Vân Anh trong những năm tháng mới cầm bút.
Nhưng càng về giai đoạn sau, ngôn ngữ trong thơ bà càng sắc sảo hơn, giàu tính biểu tượng hơn, mở ra nhiều chiều hướng tiếp cận cho người đọc. Thơ của Vân Anh nhìn chung không phải là kiểu thơ để chỉ đọc một lần là thẩm thấu. Đó là kiểu thơ phải đọc chậm rãi, đọc nhiều lần mới có thể bóc tách, tìm được lớp trầm lặn sâu trong câu chữ. Nhiều bài thơ ấn tượng của bà dường như đều được viết theo tâm thế này.
Một trong những đặc điểm khá nổi bật của thơ Vân Anh là tính đối thoại, tính luận bàn. Bà luận bàn về những vấn đề mang tính xã hội như: Lịch sử, chiến tranh, quê hương, đất nước (Tổ quốc, Trước ngôi nhà lịch sử, Đất và người miền Trung…); luận bàn về đạo đức (Ngộ giác), về cái đích của sự sáng tạo (Trăn trở); luận bàn về phụ nữ (Đàn bà và chiến tranh, Lỗi nhịp nhân gian, Phác thảo đàn bà…)… và luận bàn cả những vấn đề thuộc về trái tim,về tình yêu, hạnh phúc (Mỵ Châu, Dự cảm, Độc thoại trước biển, Hoài niệm, Chỉ số tình yêu, Sự tích đời ta, Bản tình ca bất tử…), thậm chí đưa đôi bàn tay lên là cũng có thể luận bàn (Ngẫm về đôi bàn tay)... Nhưng dù luận bàn về điều gì, thì cốt lõi của thơ bà vẫn là để khẳng định, biện giải, đề cao cá tính sáng tạo, sức mạnh của truyền thống văn hoá, vẻ đẹp của tình yêu, vẻ đẹp của nghĩa nhân "Bóc dần vỏ bọc thời gian/Giữa đời ngậm ngải tìm trầm Nghĩa Nhân" (Lời tựa tập thơ Tìm trầm)… Qua những đối thoại, luận bàn mà thể hiện tư tưởng, nói lên tiếng nói của cá nhân. Trong thơ bà ta gặp nhiều câu thơ có tính khẳng định, tổng kết, chiêm nghiệm, kiểu như: "Những thần tượng dối lừa nhào nặn/Ngã chỏng chơ mưa bão thời gian" (Ngộ giác); "Trước biển/ Ta tự mình thanh lọc/ Trầm lắng hóa ngọc trai/ Nông nổi thành bọt bã" (Độc thoại trước biển), "Có thể đến một ngày/Con tàu "Hành tinh trái đất"/chìm vào lỗ đen vũ trụ/Nhưng những bản tình ca/Vẫn vang vọng không trung" (Bản tình ca bất tử)... Chính điều này đã làm cho thơ bà, như nhiều người đánh giá, là giàu tính triết lí. Tính triết lý được xem là một phương diện để làm giàu thêm về nhận thức, gợi ra những liên tưởng và những suy ngẫm không giới hạn cho người đọc và đương nhiên tính triết lí trong thơ vì vậy cũng là một yếu tố làm cho tác phẩm có chiều hướng đa thanh. Dễ thấy rằng nếu người viết có vốn văn hóa, có tư duy biện giải và biết vận dụng điều đó trong sáng tạo nghệ thuật, mang dấu ấn, giọng điệu riêng thì sáng tác của họ sẽ giàu màu sắc triết lý. Dĩ nhiên, đây không phải là thế mạnh, cũng không phải là đặc trưng ưu trội của ngôn ngữ thơ, nhưng khi chất suy tưởng được kết hợp nhuần nhị với cảm xúc, khi ngôn ngữ của trí tuệ kết hợp hài hòa với ngôn ngữ của trái tim, tác phẩm ấy sẽ lấp lánh một vẻ đẹp riêng. Thơ Vân Anh đã thực sự chạm vào những điều đó. Có thể khẳng định rằng tính suy tưởng, giàu triết luận là một trong những yếu tố làm nên màu sắc đa thanh trong ngôn ngữ thơ Vân Anh ở giai đoạn từ năm 2005 đến nay.
Về giọng điệu trong thơ Vân Anh, dễ nhận thấy ở giai đoạn đầu, giọng chủ đạo trong thơ bà là giọng trữ tình. Thời kì này, nhiều bài thơ hay của bà được làm theo thể lục bát, với âm điệu nhẹ nhàng, ngôn từ trong sáng, dễ tiếp nhận, phù hợp với những nội dung mà bà bộc bạch trong đó. Từ những năm 2006 trở đi, với những tập thơ như Con sóng khát (2009), Mùi tuổi (2015), Tìm trầm (2020) và những bài thơ được viết trong 5 năm lại đây, như đã nói, thơ bà có thêm một màu sắc mới trong giọng điệu: giọng triết luận. Tuy nhiên, khảo sát kĩ các bài thơ ở giai đoạn 2005 về sau, ta thấy giọng điệu trong thơ bà khá đa dạng: Có giọng suy tưởng, triết luận như đã đề cập; có giọng điệu trữ tình, sâu lắng; lại có khá nhiều bài thơ có chút giễu nhại, thách thức (Ngẫu hứng một mình, Đánh thức, Khác lạ, Chân dung tự họa… ) … Thậm chí có sự giao thoa của nhiều giọng điệu trong chính một bài thơ (Đàn bà và chiến tranh, Gam màu, Ngụ ngôn cho mình…). Đây cũng là một đặc điểm quan trọng làm cho thơ Vân Anh đa dạng trong cách cảm nhận, mang đậm màu sắc đa thanh.
Việc bài thơ khép lại, nhưng vẫn còn những khoảng lặng, những khoảng trắng, để người đọc tự lấp đầy ý nghĩa cũng là một đặc điểm thường thấy trong thơ Vân Anh ở giai đoạn sau. Rất nhiều bài thơ của Vân Anh dù đã khép lại câu từ nhưng những âm vang của nó vẫn còn. Lại có những bài thơ kết thúc bằng một biểu tượng, một hình ảnh, nhưng lại mở ra nhiều tầng nghĩa, gợi nhiều suy tư, với những câu hỏi đầy ám ảnh (Trước ngôi nhà lịch sử, Dự cảm, Đánh thức, Ngẫm về đôi bàn tay, Bóng âm, Tản mạn trước mùa giáng sinh, Trò ú tim…). Đôi khi, có những bài thơ lại kết thúc bất ngờ, không thể hiện rõ cảm xúc của người viết (Mùa hương trinh nữ, Chỉ số tình yêu, Tôm mơ hóa rồng, Chậm…). Nhà thơ Vân Anh từng viết: "Hết nắng rồi đến sương/tròn vòng quay một kiếp/những gì chưa nói hết/ bỏ ngỏ ngàn trang thơ" (Tự cảm I). Đó cũng là chỗ gặp gỡ với tư tưởng của nhà thơ Chế Lan Viên: "Bài thơ anh làm/ anh làm một nửa mà thôi/Còn một nửa để mùa thu làm lấy" (Sổ tay thơ). Việc để ngỏ bài thơ là một cách giúp người đọc có cơ hội đồng sáng tạo, là nơi gặp gỡ đầy thú vị giữa độc giả và tác giả. Đây cũng là một phương diện làm nên tính đa thanh trong sáng tác của nhà thơ Vân Anh.
Tóm lại, sự vận động trong phong cách nghệ thuật của một tác giả là một quá trình mà ở đó chịu sự tác động của nhiều yếu tố như hoàn cảnh lịch sử, văn hoá, xã hội… Nhưng yếu tố quan trọng nhất vẫn là vốn sống, những trải nghiệm cá nhân và đặc biệt là quan niệm sáng tác, ý thức trách nhiệm của người cầm bút, là tâm hồn nhạy cảm của người nghệ sĩ trước đời sống, trước cái đẹp.
Những chuyển động trong phong cách nghệ thuật của nhà thơ Vân Anh trong hành trình sáng tác gần 50 năm qua đã tạo nên một bức tranh đa màu, sinh động, nhưng không vì vậy mà làm nhạt đi mảng màu riêng, vẻ đẹp riêng trong những tác phẩm thơ của bà. Từ những năm 2002, trong Lời giới thiệu cho tập thơ Bình minh muộn (Nxb Nghệ An, 2002) nhà thơ Thạch Quỳ đã có những nhận xét rất tinh "Vân Anh là tác giả có dấu văn tay điểm chỉ vào giấy khai sinh tác phẩm". Đến năm 2023, khi đọc Tuyển tập thơ Vân Anh, PGS.TS. Đinh Trí Dũng cũng phát biểu: "Hai trăm bài trong tuyển tập chưa phải là tất cả thơ Vân Anh nhưng cũng giúp người đọc hình dung khá rõ nét một gương mặt thơ độc đáo, giàu cá tính của làng thơ xứ Nghệ". Đó đều là những đánh giá cao về phong cách của một nhà thơ, cũng là sự ghi nhận của độc giả dành cho nhà thơ Vân Anh. Có thể nói rằng sự kết nối giữa truyền thống và hiện đại trong phong cách nghệ thuật của một nhà thơ chính là minh chứng cho sức sống bền bỉ, mãnh liệt của thơ ca, khẳng định rằng nghệ thuật đích thực là luôn vận động để vươn tới những chân trời sáng tạo mới.