Thứ Ba, 16 tháng 10, 2012

Một khúc tâm tình của người lính


(Đọc bài thơ: "Viết sau ngày nhập ngũ" của nhà thơ Trương Vĩnh Tuấn)

Tôi bị cuốn hút và đọc một mạch hết 234 trang sách với 95 bài thơ của tác giả và 20 bài viết của bạn bè trong tập  "Thơ - Tác phẩm và Dư luận" của nhà thơ Trương Vĩnh Tuấn. Với tôi, ám ảnh nhất bài "Viết sau ngày nhập ngũ". Bài thơ có lịch trình 41 năm (1965-2006) đồng hành cùng tác giả:  Từ phút chàng lính trẻ 19 tuổi háo hức bước lên con tàu Bắc - Nam vào chiến trường đánh Mỹ đến HÔM NAY anh đã là một nhà thơ, nhà báo, một phó Tổng biên tập tờ báo Văn nghệ của cả nước và tuổi đời chạm vạch lục tuần.
Bài thơ là tiếng vọng nỗi khát thèm TÌNH MẸ của một tuổi thơ nhọc nhằn và đầy ẩn ức - Và còn là một nét chân dung tinh thần của thế hệ thanh niên Việt Nam trong cao trào chống Mỹ cứu nước từ nửa sau thập kỷ 60 của thế kỉ trước. Từ đầu đến cuối bài thơ là TIẾNG LÒNG  của người con nói với người mẹ của mình. Nhân vật trữ tình ở đây cũng là chủ thể sáng tạo.  Người con trong tác phẩm không được hưởng hạnh phúc thường tình của nhân loại là no nê tình mẹ như những đứa trẻ khác. Chiến tranh của kẻ xâm lược gây ra đã gần như hai lần bắt em nếm trải cảnh mồ côi: Cha em là liệt sĩ bỏ lại người mẹ của em góa bụa giữa thì xuân sắc nên bà phải đi bước nữa - Em chẳng có tình cha và phải rời xa tình mẹ. Một phác thảo buồn hiện ra ngay khổ đầu bài thơ "Ngày mẹ đi lấy chồng / Con ra bờ sông ngồi khóc / Cá ngoi lên mặt nước / Cỏ rất mềm mà lòng con nhói đau". Nỗi đau mất cha,  có thể chưa đủ sức cảm nhận nhưng nỗi buồn xa mẹ thì cứa nát tâm can đứa trẻ: Muôn loài như sẻ chia với em "Cá ngoi lên mặt nước" làm bạn với em, "cỏ rất mềm" như lót thảm cho em ngồi -  Nhưng "lòng con nhói đau". Ở tuổi "lên ba, lên bốn đang mến mẹ chẳng rời"  mà em phải xa mẹ nên nỗi đau nhức nhối tâm hồn thơ dại, hằn một vết thương lòng của sự mất mát vòng tay mẹ mà không gì có thể bù đắp nổi. Em ngồi khóc bên bờ sông, em khóc trong ruộng mía, khóc đến lúc: "Nước mắt con cạn khô". Nỗi đau xa mẹ của người con trong thơ Trương Vĩnh Tuấn dường như có sự gặp gỡ với nỗi oặn đau tình mẹ tuổi thơ của danh hoạ Leonnadevanci - Tác giả của kiệt tác Lagiocon. Nhiều nhà nghiên cứu hội hoạ trên thế giới cho rằng nụ cười bí ẩn của người đàn bà trong bức tranh được cất cánh cảm hứng từ nụ cười vừa rạng rỡ sung sướng vừa đau đớn buồn bã của một nữ tu thường đón cậu bé Leonna mỗi sáng chủ nhật khi cậu cùng cha mình (Một vị quý tộc)  đi lễ ở nhà thờ. Nữ tu ấy chính là mẹ cậu - một cô gái chăn cừu - còn thiên tài hội hoạ tương lai ấy đã bị gia đình bên nội giằng khỏi vòng tay mẹ từ buổi lọt lòng. . .

Chạy dọc bài thơ là tiếng gọi "Mẹ ơi!" - một tiếng gọi bản năng của nhân loại, như một diệp khúc thân thương, thao thiết lay động lòng người. Dẫu còn thơ dại những tình mẫu tử đã giúp em cảm nhận về người mẹ của mình: mẹ mang nặng đẻ đau, tất tả bồng con chạy giặc, ấp iu con như "nâng trứng", "hứng hoa", từng nuôi con không chỉ bằng dòng sữa ngọt ngào mà còn bằng những câu ca thấm đấm lẽ đời: "Mồ côi cha ăn cơm với cá / Mồ côi mẹ trải lá nằm đường". Mỗi chữ, mỗi câu trong bài thơ cồn cào nỗi khát đói tình mẹ: "Con không cần cá / Con cần mẹ ở với  con". Người mẹ luôn hiện diện trong tâm trí em: mỗi sáng, mỗi trưa, mỗi chiều, mỗi tối, lúc nào em cũng khắc khoải: "Con thèm có mẹ". Nhà thơ Trương Vĩnh Tuấn đã khắc hoạ một tuổi thơ đặc quánh nỗi nhọc nhằn và chất chứa nhiều ẩn ức. Có cả cái biến động của "người lớn là người lớn ơi!" mà sự ấu trĩ của tuổi hoa niên không thể nào giải mã được: Vì sao gia sản của ông ngoại bị tịch thu, vì sao em lại được chia quả thực từ tài sản ấy, vì sao ông bị đem đấu tố giữa đình làng và cả bi kịch "Mẹ ở nơi xa / không dám về thăm / Vì nhà mình là địa chủ".. Cả cái nỗi cô độc em phải một mình "nằm dưới gốc cây rơm" khi thiếu niên cả làng "trống giong cờ mở"  đi mít tinh, cổ động... Cũng may tuổi thơ của em được bà con bên ngoại sưởi ấm, bù chì . Ông ngoại "thắp đèn hạt đỗ" mặc  áo nâu sờn đi tìm em trong ruộng mía, cậu ruột - em của mẹ "ngày ngày vào rừng hái củi" "dẫu bữa no bữa đói" cũng cho em "cắp sách tới trường". Rồi dân làng ai ai cũng thương em, dù em hái trộm quả ổi, quả cam nhưng "bắt được không nỡ đánh / người làng thương trẻ mồ côi"

Tuổi thơ của người con trong bài thơ là phiên bản trung thành tuổi thơ của thi sĩ Trương Vĩnh Tuấn. Một tuổi thơ vất vả phải chăn trâu, cắt cỏ, hái củi, cày bừa; một tuổi thơ đói cơm rách áo, thiếu vắng tình mẹ; một tuổi thơ gắn với miền quê dân dã cùng bạn bè bắt "cào cào châu chấu tí tách đê làng" ngắm "đêm rằm trăng sáng vàng ươm" "Trèo mái đình bắt đàn chim sẻ" nhưng tuổi thơ ấy đã sớm có nghị lực "Con hái những ngày đắng chát / xây cuộc đời của con".

Bài thơ "Viết sau ngày nhập ngũ" còn đưa đến cho người đọc một phác thảo đời sống tinh thần của thế hệ thanh niên, học sinh, sinh viên khi giặc Mỹ tiến hành chiến tranh phá hoại ở Miền Bắc xã hội chủ nghĩa. Nhà thơ đã có cách thể hiện tinh tế tâm trạng của cả một thế hệ thanh niên qua tâm trạng của người con. "Hôm qua trường chúng con / Trích máu ăn thề quyết trả thù cho anh Trỗi / Mẹ ơi! Hình như con có lỗi". 'Vì sao người con ở đây cảm thấy "hình như có lỗi", khi kẻ thù phá cuộc sống yên bình của mọi gia đình, mình là một thanh niên mà yên vị ngồi trên ghế nhà trường là mặc cảm có lỗi với nhận dân. Để cho người con tự cảm nhận "Mẹ ơi! Hình như con có lỗi", là nhà thơ đã bộc lộ một xúc cảm thẩm mĩ rất mẫn tiệp - Đó là một cách bày tỏ tình cảm yêu nước cao đẹp mà bình dị của thanh niên trên miền Bắc XHCN lúc bấy giờ. Và cử chỉ rất đẹp, rất khiêm nhường, rất phổ biến của những thanh niên lúc ấy: "Con lẳng lặng một mình, đòi đi tòng quân".  Sao người thanh niên phải "lẳng lặng một mình đòi đi tòng quân". Vì sao anh phải "dấu ông, dấu cậu, dấu dân làng và đòi nhập ngũ? Bởi vì anh  là người con duy nhất của một liệt sĩ. Đất nước rất cần thanh niên ra trận nhưng vẫn giành chính sách ưu đãi cho con cháu những người lính đã "quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh" được tiếp tục học hành. Rất nhiều chàng trai tuổi 17, 18 đôi mươi đã chối từ sự "ưu tiến" ấy và bằng nhiều con đường khác nhau để "trốn" gia đình, quê hương tòng quân ra trận... Bởi lúc đó "cả nước lên đường", "mỗi người dân là một chiến sỹ".

Có thể nói, khép lại bài thơ là bầu tâm sự của người lính sắp lên đường ra chiến trường: Nhà thơ đã khắc họa khúc tâm tình ấy vừa chân thật vừa lãng mạn đến nao lòng. Người lính ấy trẻ lắm, lòng anh xốn xang trong cái đêm rằm trước ngày nhập ngũ. Anh ra với bờ sông, ruộng lúa, với phần mộ tổ tiên để nói một lời: "Quê ngoại của con ơi / Con xin phép lên đường". Nhà thơ như hóa thân vào cảnh vật quê hương: "Ông trăng tròn" "Cứ theo con trên cánh đồng ngô xanh mướt".  Rồi anh nằm trên bờ mương hít thở mùi nồng ấm của phù sa sông Hồng để chia tay với "chú dế mèn khẽ  hát". Chính giờ phút này, dường như âm dương giao hòa để trào dâng trong lòng anh một linh cảm thiêng liêng thành kính, anh nói với mẹ: "Mơ thấy cha cười / cha thơm lên tóc con". Anh thắp hương cho ông ngoại và thủ thỉ nói với ông như lúc sinh thời và  cảm nhận ông vẫn yêu cháu, vẫn lắng nghe cháu nói như ngày nào: "Hình như ông cựa mình trong đất". Và cuộc chia tay với người cậu - người thay cha anh nuôi anh khôn lớn, chia tay với dân làng, với bà con bên ngoại: từ  việc cậu anh "hỏa tốc" về làng, họ hàng "đông nghịt", người lớn kiệm lời" - Tiễn người ra trận - lại còn của một liệt sĩ -  tất cả nỗi niềm của người thân, họ mạc, dân làng đều bịn rịn và pha một chút âu lo mơ hồ...

Tất cả đã được nhà thơ diễn tả trong hình ảnh rất có ý nghĩa: "Đến không khí cũng trở thành đá tảng".  Cách so sánh thật là "đắc địa" vì có sức gợi tả sự "nặng lòng" của người ở lại - Ngôn từ hoàn toàn bất lực khi miêu tả nỗi niềm tiễn đưa người thân vào nơi bom rơi đạn lạc. Tâm trạng "nặng như đá tảng" đã thay họ nói những điều họ nghĩ mà không nỡ nói ra: Dự cảm của cuộc chia tay phấp phỏng nỗi sinh ly tử biệt. Rồi hình ảnh "nồi cơm nếp đỗ đen", người cậu nấu đãi đứa cháu mồ côi lúc lên đường ấy như nồi cơm tình nghĩa của Thạch Sanh hết rồi lại đầy cho người lính mãi mãi "no lòng lúc xa gia đình, quê hương và anh vững bước hành quân, bền gan chiến đấu. Bao "đoàn tàu lầm lũi" đưa những người con của châu thổ sông Hồng và mọi miền quê khác như anh vao chiến trường. Lòng anh như có "bão", có "sóng", "gầm lên", "xối xả" trào dâng những nghĩ suy đa chiều trước bước ngoặt cuộc đời  - Từ mái trường đi tới chiến trường. Còn trái tim của chàng trai mười chín tuổi vẫn những nhịp đập "bình lặng khe khẽ" âm thầm dành cho mẹ: "Mẹ ơi! Con thương mẹ", dù lâu lắm rồi anh không được tận hưởng hơi ấm của mẹ, dù con tàu trôi nhanh, dù gió cuốn' lời của tim anh. Nhưng bằng  linh cảm kì diệu của tình mẫu tử, anh tin, mẹ anh - một người mẹ đau khổ nhất dời - vẫn nghe tiếng gọi "Mẹ ơi!" vô cùng thống thiết, vang vọng trong không gian, phiêu diêu cùng thời gian.

Là một người con rất yêu mẹ, là một người mẹ rất thương con, sau khi đọc bài thơ. "Viết về ngày nhập ngũ"  tôi không thể không viết những dòng này tri ân với tác giả - coi như đây thêm một lần đồng sáng tạo với thi sĩ. Phải rồi, bài thơ như "biên niên sử" một quãng đời lục thập hoa giáp: Từ khi anh là đứa trẻ mồ côi cha, xa tình mẹ, khi anh là người lính vào sinh ra tử, khi anh trở về đời thường vật lộn mưu sinh, khi anh gạt nước mắt dấu tận đáy lòng chuyện tình ngang trái, khi anh là nhà thơ, là Phó Tổng biên tập. Và đến bây giờ anh đã mãn nguyện coi đứa con trai 10 tuổi là tài sản vô giá cho muôn đời họ Trương thừa kế và thanh thản đem "được thua" của mình "trả tất" cho thiên hạ.
Với bài thơ "Viết sau ngày nhập ngũ" bạn đọc sẽ đón nhận LỜI ĐỒNG VỌNG của tâm hồn thi sĩ Trương Vĩnh Tuấn: tấm lòng thơm thảo của người con dành cho mẹ ruột của mình, tấm lòng của một công dân yêu nước dành cho Tổ quốc Việt Nam.
                                                                                                                                                                V.A

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét