(Nói với con – Y Phương – SGK NGữ văn 9, tập 2)
Lòng yêu thương con, ước mong thế hệ sau thừa kế và phát huy truyền thống của tổ tiên, quê hương vốn là tình cảm cao đẹp của dân tộc ta. Đó cũng là nguồn cảm hứng vô tận của thi ca. Bài thơ "Nói với con" của Y Phương cũng khai thác đề tài phổ biến và rộng lớn đó. Bằng giọng điệu thơ độc đáo, mang hồn cốt của người dân miền núi, bài thơ đã thể hiện thành công lời nhắn nhủ của người cha (thế hệ đi trước) với người con (thế hệ đi sau) về tình cảm gia đình đầm ấm, về tình yêu quê hương, tự hào về truyền thống nghĩa tình sâu nặng, về ý thức tự tôn, lẽ sống cao thượng của nhân dân ta.
Từ hiện thực cuộc sống của chúng ta từ những năm 80 của thế kỷ trước, tác giả viết bài thơ động viên mình, động viên mọi người, nhắc nhở con cái sau này. Mượn lời người cha nói với con, tác giả bỏ ngỏ lòng mình, những suy ngẫm, ước mong về tình cảm nguồn cội của con người.
Trước hết, người đọc cảm nhận được qua niềm hứng khởi của tác giả và cũng là người cha khi tự hào về khung cảnh ấm cúng, đầy ắp niềm vui. Người cha nhắc nhở người con được sinh ra, lớn lên trong vành nôi đầm ấm tình cảm gia đình: "Chân phải bước tới cha/ Chân trái bước tới mẹ/ Một bước chạm tiếng nói/ Hai bước tới tiếng cười". Niềm tự hào ấy của người cha được tác giả biểu đạt bằng ngôn ngữ hình ảnh thị giác, thính giác để ta cảm nhận được niềm hạnh phúc của người con trong vòng tay yêu thương của mẹ cha từ thuở ấu thơ. Người cha còn nhắc nhủ rằng con không chỉ đón nhận tình cảm ấm áp của người thân mà còn đón nhận tình thương của "người đồng mình" - của bà con cô bác trên quê hương. Tác giả đã sáng tạo ra hình ảnh thơ vừa cụ thể vừa mang ý nghĩa khái quát cao, tạo ra một hình ảnh giàu chất thơ để bộc lộ niềm tự hào của người cha khi nói với con về cuộc sống quê hương mình: "Đan lờ cái nan hoa/ vách nhà ken câu hát". Còn những con người của quê hương thì chia bùi sẻ ngọt: "Con đường cho những tấm lòng". Người cha nói về vẻ đẹp của "người đồng mình" để cho con yêu mến, trân trọng.
Người cha tự hào về người đồng mình: "Sức mạnh truyền thống, lòng thuỷ chung với quê hương. "Người đồng mình" biết lấy cái "cao", cái "xa" của đất trời làm số đo cho "nỗi buồn" và "chí hướng"… Người cha nhắc nhở con phải biết tự hào với tầm vóc của núi rừng hùng vĩ, của con người anh hùng tiếp nối những Đam San, Xinh Nhã,… Từ đó cha khuyên răn con mình hãy quý trọng nơi sinh thành, dưỡng dục, dục mình nên người: "Sống trên đá không chê đá gập ghềnh", "Sống trong thung không chê thung nghèo đói". Dù miền quê còn thiếu thốn, khó khăn và nghèo khổ. Đặc biệt, người cha muốn gửi gắm với con lối sống đẹp của quê mình, rồi đây khi con trưởng thành có thể sống "hoà nhập" với bạn bè quốc tế mà không bị "hoà tan" cốt cách của con người miền núi, của xứ sở Việt Nam. Đó là cách sống hồn nhiên, cần cù để vượt qua mọi thử thách ở đời: "Sống như sông như suối!/ Lên thác xuống ghềnh/ Không lo cực nhọc". Người cha không chỉ dặn dò con, để con biết thương "người đồng mình" mà kì vọng con sống xứng đáng với quê hương. Nhà thơ đã để cho người cha nói về niềm tự hào, lòng tự tôn dân tộc trong lối nói độc đáo của người dân miền núi rẻo cao: "Người đồng mình tự đục đá kê cao quê hương". Ta cảm nhận hình ảnh này có 2 tầng ý nghĩa: Nghĩa thực tả cuộc sống lao động ở vùng nông thôn miền núi. Còn nghĩa biểu trưng muốn khái quát về tinh thần tự tôn, ý thức bảo tồn nguồn cội.
Ở đây, lời nhắn nhủ cuối cùng người cha muốn gửi tới con là con hãy phát huy bản chất mộc mạc, chân chất mà cao thượng, tự trọng. Hai lần nhà thơ để cho người cha nhắc đến vẻ đẹp của lối sống giản dị đó trong hình ảnh: "Người đồng mình thô sơ da thịt…/ Con ơi tuy thô sơ da thịt" Và mỗi lần như thế, người cha nhắc nhở con khắc cốt ghi tâm truyền thống tốt đẹp của quê hương, của đồng bào là biết sống cao thượng, không thấp hèn. Người cha ca ngợi tiền nhân sống: "Chẳng mấy ai nhỏ bé đâu con" thì thế hệ con cháu phải sống xứng đáng với tổ tiên "Không bao giờ nhỏ bé được/ nghe con". Lời người cha được tác giả diễn tả bằng lời lẽ chân tình và thái độ ân cần thủ thỉ, lúc thì "con ơi!" lúc thì "nghe con" rất thiết tha, sâu nặng tình người. Bởi vậy, vẻ đẹp và sức mạnh của truyền thống của quê hương được cha truyền lại cho con thấu tình đạt lý, nên bài học về đạo đức không xa vời cao siêu mà thấm sâu vào tâm trí của người con một cách tự nhiên, để những người con khi trưởng thành biết sống hữu ích trên đường đời.
"Thơ Y Phương như một bức tranh thổ cẩm đan dệt những màu sắc khác nhau, phong phú và đa dạng, nhưng trong đó có một sắc màu chủ đạo, một âm điệu chính là bản sắc dân tộc rất đậm nét và độc đáo" (trích "Từ điển "Tác giả, tác phẩm văn học Việt Nam dùng cho nhà trường"). Đúng vậy với những sợi thổ cẩm ngôn ngữ trong sáng nhà thơ đã dệt nên hình ảnh mộc mạc, đẹp, giàu sức biểu cảm cùng với thể thơ tự do nhịp điệu uyển chuyển lúc mạnh mẽ, lúc bay bổng nhẹ nhàng cùng hoà nhập với khúc biến tấu tâm tình của người cha truyền thấm sang con. Với cảm xúc mang tiếng nói đại diện, nhà thơ mượn lời người cha nhắc nhủ người con để lột tả bản sắc truyền thống tốt đẹp cảu đồng bào miền núi. Bởi vậy, ý nghĩa của tác phẩm không dừng lại là lời cha dạy dỗ con cái mà chính là lời trao gửi chuyển giao thế hệ: Thế hệ sau thừa kế và phát huy lẽ sống cao đẹp của thế hệ trước. Tương lai của quê hương, đất nước ở trong tay của những người con. Chúng ta, tuổi trẻ học đường, ông cha ta đã chiến đấu, hy sinh để giành độc lập cho đất nước, hạnh phúc cho nhân dân, ta phải gom nhặt hành trang học vấn, tu dưỡng đạo đức và kĩ năng sống để xứng đáng với tiền nhân, để có thể đưa dân tộc "vẻ vang sánh vai các cường quốc năm châu" như tâm nguyện của Bác Hồ kì vọng ở thế hệ trẻ Việt Nam.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét