MẤY CẢM NHẬN NHÂN ĐỌC TÂP THƠ "TÌM TRẦM"
của nhà thơ Vân Anh (NXB Nghệ An 2020)
- Bài viết của nhà giáo Nguyễn Quang Tuyên.
- Bài viết của nhà giáo Nguyễn Quang Tuyên.
( Đăng tải Tạp chí VĂN NGHỆ TRÀ VINH số 130+131.Tháng 10+12 - 2021 )
BỀN BỈ VÀ SAY MÊ
Có những nhà thơ chỉ nổi lên một thời mà chủ yêu là thời còn rất trẻ. Có thể có nhiều lý do, nhưng lý do chính là cảm hứng sáng tạo thi ca không còn. Ngược lại, cũng có những nhà thơ bền bỉ sáng tạo đến mức quên cả tuổi già.Vân Anh là một trong những số đó. Chị bắt đầu làm thơ khi còn là học sinh phổ thông. Đến nay, đã ngoài bảy chục, chị vẫn có thơ đăng đều đều trên các báo, tạp chí. Cứ khoảng 4 năm, chị lại có một tập thơ trình làng "Tìm trầm" là tập thơ thứ 11 của chị.
Thơ với chị, như một cái duyên tiền kiếp, không thể buông bỏ, chị thường bỏ ngỏ:"Kiếp sau ta vẫn làm thi sĩ/Trái tim duềnh bao nỗi hài, bi", và dù biết "Khi cuộc đời tuổi mùa thu mấp mé /Sự sáng tạo là đứa con khó đẻ" mà chị vẫn mải mê "Vắt kiệt kiếp mình… Bùn dâng hiến/ Kết tinh hương sắc của đời… Sen".
SÁNG TẠO VÀ ĐỔI MỚI
Vân Anh quan niệm, công việc lao động nghệ thuật của nhà thơ, cũng vất vả, gian truân, như hành trình của những phu tìm trầm, phải vượt suối, trèo non, giữa rừng xanh núi thẳm, nếu muốn tìm được những loại trầm quý hiếm.
"Tìm trầm" là một tập thơ mỏng, nhẹ, chỉ có 27 bài (gồm 25 bài và 2 chùm thơ 4 câu, 2 câu). Nhẹ nhưng mà nặng, bởi sức chứa các thông điệp được tác giả gửi gắm trong các hình tượng thơ thật đa dạng, phong phú.
Có khi là thái độ quyết liệt, gay gắt chống lại cái ác, cái trì trệ, giáo điều (Bóng âm, Trăn trở). Có khi là sự thấu cảm về những hy sinh, mất mát của đồng loại (Giọt đau, Phác thảo chân dung nhà giáo , Đàn bà và Chiến tranh ). Có khi là niềm tự hào về quê hương xứ sở (Xứ Nghệ). Có khi là sự tri ân với các bậc sinh thành (Mùa tuổi). Có khi là một cảm giác cô đơn, chơi vơi, sám hối… khi phải đối diện với chính mình… (Trái tim thức giấc).
"Tìm trầm" không dễ đọc, bởi tính khái quát, tính hàm súc, tính triết luận xuyên suốt tập thơ. Độc giả khó tiếp nhận được hết các thông điệp tiềm ẩn trong các câu chữ, các tín hiệu nghệ thuật đặc biệt là tính ẩn dụ. Nhưng chính sự không dễ đọc đó, lại kích thích sự tìm tòi, khám phá đối với các độc giả yêu thơ.
Cứ lướt qua tựa đề các thi phẩm cũng đã cảm nhận được một phần: Đàn bà và chiến tranh, Bóng âm, Đỡ hài nhi vũ trụ, Phác thảo đàn ông, Chiêm nghiệm, Ngộ giác, Trái tim thức giấc…
Đó cũng là dấu hiệu của một sự chuyển đổi bút pháp của nhà thơ Vân Anh. Nếu như ở "Hương thơm cỏ vắng" (1987, ở "Trái muộn(1991) nhiều bài còn thiên về bút pháp tự sự, miêu tả với thể thơ lục bát hoặc thơ Mới, thì giai đoạn sau ( với " Vọng về Xứ Phuống" , " Con sóng khát " , " Mùi Tuổi " , đặc biệt là " Tìm trầm " lại thiên về thơ cách tân, thơ suy tưởng, thơ triết luận, bằng những hình tượng mang tính ẩn dụ cao, bằng những ngôn từ mang tính khái niệm, bằng những cấu trúc chặt chẽ, gọn gàng. Ví như bài "Đàn bà và chiến tranh". Nếu với tựa đề "Đàn ông và chiến tranh" thì chẳng ai chú ý làm gì, vì "Trai thời loạn, gái thời bình" là chuyện muôn thuở. Lịch sử đã khẳng định, mỗi lần chiến tranh xảy ra, đàn ông ra trận và "cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi" là chuyện không tránh khỏi. Sự hy sinh to lớn nhất, là hy sinh xương máu. Nhưng trong cảm nhận của Vân Anh thì người đàn bà trong chiến tranh cũng chịu đựng, cũng hy sinh không kém gì đàn ông. Cuộc chiến đấu thầm lặng ở một mặt trận tuy không có tiếng súng nhưng sự sang chấn về tinh thần thì vô hạn. Cô đơn. Chờ đợi. Khát khao. Nhà thơ đã sáng tạo ra một hình tượng biểu trưng: Chiếc áo ấm người vợ gửi cho chồng nơi chiến trận được đan bằng những sợi Xuân Xanh của những người vợ lính: Nào sợi Buồn, sợi Nhớ, sợi Khát khao, mà sợi nào cũng dài đến khủng khiếp. Sợi Khát khao thì chăng dài đêm đông, "sợi Nhớ" thì căng cả bốn mùa. "sợi Chờ" thì không thể tính ngày, tính tháng… Để rồi chiêm nghiệm:
" Trải trường chinh giữ nước
Tình yêu của đàn bà
Bom đạn của chiến tranh
Cùng vào trận
Hãy tặng đàn bà
Bình yên " .
Nhà thơ đã đọc được những điều sâu kín nhất từ trong tâm khảm của những người phụ nữ trên trái đất này. Rằng: Điều họ sợ nhất là chiến tranh. Rằng: điều họ khát khao nhất là bình yên.
"Bóng âm" cũng thế. Ở đây tác giả đã vận dụng một khái niệm vốn có trong triết học phương Đông từ thời cổ đại: âm và dương. Hai phạm trù như đối lập nhau. "Âm" được nhân hóa như một bóng ma chập chờn cản đường phía trước, như một tên đồ tể, một thằng "nghịch tử" sẵn sàng "vung gươm sát phạt" những "cái mới đang nảy mầm", đang "trổ lá, vươn cành", đang "dâng hương, dâng quả".
Với "Bóng âm", tác giả muốn xác lập một vấn đề của đời sống: cái ác luôn rập rình, hiện hữu quanh ta như một bóng ma. Phải tiêu diệt nó, loại bỏ nó ra khỏi đời sống xã hội, thì mới mong bảo vệ được: "Trí tuệ - Tâm hồn - Nhân cách". Thái độ của tác giả đối với cái ác thật là quyết liệt, gay gắt:
"Khi bóng âm là nghịch tử
Sao nhân loại chần chừ ?(!)"
Khi xã hội đang lẫn lộn giữa "thiên thần và ác quỷ", thì phải tự sắm cho mình một chiếc "kính chiếu yêu" để diệt trừ ác quỷ.
Sự tưởng tượng, sự liên tưởng trong thơ Vân Anh thật dồi dào. Hình tượng "Con tàu" trong "Bản tình ca bất tử" là sản phẩm của trí tưởng tượng kì vỹ. Tác giả đặt tên cho con tàu là "Hành trình trái đất". Tàu chạy xuyên lục địa, nhưng chỉ qua 2 ga "Khởi Thủy" và "Tận Thế". Tàu chỉ chở có 2 loại người: "Thiện và Ác". Mọi việc diễn ra trong cuộc hành trình bất tận này, chung quy lại cũng chỉ nằm trong các cặp phạm trù "Chiến tranh và Hòa bình", "Bi thương và Hùng tráng", "Hạnh phúc và khổ đau". Đó là quy luật vận hành của đời sống. Và tác giả tưởng tượng, khi con tàu chạy đến ga cuối cùng, ga "Tận Thế" sẽ chìm vào lỗ đen vũ trụ… thì trên không trung vẫn vang vọng những bản tình ca.
Tác giả muốn nêu lên một chân lý: Mọi thứ có thể mất đi, nhưng Tình Yêu - Tình Người thì tồn tại vĩnh hằng. Quang Huy trong bài "Hư vô", cũng có một quan niệm tương tự:
"Cái gì cũng chỉ một thời…
Cái gì rồi cũng tiêu tan…
Cái gì rồi cũng hư vô
Cái gì rồi cũng rụng rơi
Quả nơi vườn cấm, hoa nơi địa đàng
Chỉ còn mãi với thời gian
Tình yêu từ thuở hồng hoang dại khờ
Thơ Vân Anh, có sự kết hợp khá nhuần nhuyễn giữa trí tuệ và cảm xúc. Điều đó được thể hiện ngay từ cấu trúc của tác phẩm. Những điệp khúc, điệp ngữ, những câu ngắn, câu dài, những dấu chấm, dấu hỏi… tất cả đều mang những giá trị thẩm mỹ. "Trái tim thức giấc" là một ví dụ:
Ta ngủ yên rồi
rừng già cổ sơ nằm sâu trong đất
ôm giấc mộng đen!
Ta ngủ yên
hổ nằm dài cũi sắt
vuốt mềm nhung
nanh trơn lụa!
Ta ngủ say
hồ trên núi
uống cạn cả bầu trời!
Sao người đào vỉa than
cho tan mộng ngàn năm?
Sao người mài nanh vuốt nhọn
cho chúa sơn lâm thở giọng say mồi?
Sao người ném sỏi xuống mặt hồ
vỡ ngàn mảnh trăng trong?
Bài thơ ngắn nhưng có 2 phần rõ rệt:
Phần 1: giọng điệu khẳng định với 3 điệp ngữ: Ta ngủ yên rồi và với các dấu chấm than cuối câu.
Phần 2: Giọng điệu nghi vấn cũng với 3 điệp ngữ: Sao người và với các dấu chấm hỏi cuối câu.
Sự liên kết về hình thức hoàn toàn phù hợp với từng ý thơ trong từng câu, tạo nên một thi phẩm nghệ thuật hoàn chỉnh.
Cái hay của "Tìm trầm" còn là sự kiếm tìm những khía cạnh mới trong một đề tài cũ, thậm chí rất cũ, để rồi có cách cảm nhận mới, cách nói mới, đưa đến cho bạn đọc những giá trị thẩm mỹ mới.
Thử đọc một đoạn trong bài "Nhớ Cụ Nguyễn Du" thì ta sẽ thấy chị không chỉ đối thoại với Nguyễn Du mà còn đối thoại với chính chúng ta.
Thương Kiều hay Cụ thương thân
Phong trần rồi lại phong trần … chẳng vơi?
Vu oan buộc tội bao người
Xảo nguyên mưu cũ, mới tươi bây giờ.
Sở Khanh lột xác nhởn nhơ
Bẫy tình bày đặt bất ngờ … Chốn yêu.
Quan tham ra giá dễ chiều
Còn quan xử kiện cho Kiều … trớ trêu!
Trong tay luật pháp như diều
Tội cao, tội thấp, ghét yêu … tùy người.
"Trăm năm trong cõi"… khóc cười
Lương tâm đem bán đắp bồi quyền danh.
Ngày xuân … Nhớ Cụ mơ lành
Gươm thiêng Từ Hải tung hoành… nghĩa nhân.
Đọc "Tìm trầm", ta bắt gặp một Vân Anh rất bản ngã, rất cá tính, một giọng điệu thơ mạnh mẽ, khẳng khái, tự tin, kể cả khi viết về những nỗi buồn, nỗi đau riêng của bản thân.
Khi yêu, yêu hết mình. Khi ghét, ghét tận đáy. Không trung dung nửa vời.
Đọc "Dâng hiến", để thấy một Vân Anh như thế.
Trinh nguyên tình yêu
Ánh mắt người loạn nhịp tim ta.
Trinh nguyên dâng hiến
Trao nụ hôn
Mặt trời phụt tắt
Trái đất rơi vào hồng hoang…
Ta là đêm – ngủ say trong tấm chăn quên lãng
Người – Sứ giả bình minh thức dậy sự trinh nguyên.
Ở đây nhà thơ Vân Anh không nói về tình yêu đôi lứa mà nói đến tình người và sự sáng tạo khi có tình yêu thí sẽ đánh thức được tiềm năng của nhân loại để tạo ra những giá trị của cuộc sống.
CHO MÌNH VÀ CHO ĐỜI
Vân Anh đã bộc bạch một cách chân thành: "Trong cuộc đời bao điều không thể nói/ Đành ngồi cầm bút viết ra lời…" "Tâm tư như cốc nước đầy/ Đừng thêm giọt nữa đắng cay sẽ tràn".
Thế là, với chị, thơ là nhu cầu tự thân. Làm thơ, trước hết là để gửi gắm, là tự vẽ chân dung của mình, để bỏ ngõ nỗi niềm… và cũng để sẻ chia với mọi người về những vui buồn trần thế. Theo chị, thơ hay là thơ đến được với nhiều người. Có thể là thơ hay của một thời, cũng có thể là thơ hay của nhiều thời.
Chị hiểu rất rõ số phận của thi ca nên "Chẳng bao giờ nhận mình là thi sĩ của Ngày Mai/ Bởi xác tín điều này là … Độc giả tương lai".
Suy nghĩ như vậy là rất khiêm tốn và cũng rất minh bạch. Nhưng bằng vào những gì mà chị đã được trong sự nghiệp thi ca với hơn chục giải thưởng từ cấp địa phương cho đến trung ương, ta có thể hy vọng: Thơ Vân Anh không chỉ viết Cho Mình mà còn Cho Đời. Không chỉ là thơ của Một Thời mà còn là của Nhiều Thời.
* *
*
Nguyễn Thị Vân Anh, người con gái xứ Phuống, thuộc hạ huyện Thanh Chương, Nghệ An, mảnh đất giàu tiềm năng Văn hóa - Lịch sử. Mấy chục năm dạy Ngữ Văn ở trường trung học phổ thông và Năng khiếu thành phố, chị đã góp phần đào tạo nên bao tài năng văn chương cho đất nước, chị là một giáo viên giỏi thì đó là một Nghề. Cũng chừng ấy năm, chị đam mê sáng tác thơ ca, thì đó là một Nghiệp. Chính chất lượng các tác phẩm đã đưa chị trở thành Hội viên Hội nhà văn Việt Nam. Hy vọng sau "Tìm trầm", còn được đón đọc các thi phẩm mới của chị.
BỀN BỈ VÀ SAY MÊ
Có những nhà thơ chỉ nổi lên một thời mà chủ yêu là thời còn rất trẻ. Có thể có nhiều lý do, nhưng lý do chính là cảm hứng sáng tạo thi ca không còn. Ngược lại, cũng có những nhà thơ bền bỉ sáng tạo đến mức quên cả tuổi già.Vân Anh là một trong những số đó. Chị bắt đầu làm thơ khi còn là học sinh phổ thông. Đến nay, đã ngoài bảy chục, chị vẫn có thơ đăng đều đều trên các báo, tạp chí. Cứ khoảng 4 năm, chị lại có một tập thơ trình làng "Tìm trầm" là tập thơ thứ 11 của chị.
Thơ với chị, như một cái duyên tiền kiếp, không thể buông bỏ, chị thường bỏ ngỏ:"Kiếp sau ta vẫn làm thi sĩ/Trái tim duềnh bao nỗi hài, bi", và dù biết "Khi cuộc đời tuổi mùa thu mấp mé /Sự sáng tạo là đứa con khó đẻ" mà chị vẫn mải mê "Vắt kiệt kiếp mình… Bùn dâng hiến/ Kết tinh hương sắc của đời… Sen".
SÁNG TẠO VÀ ĐỔI MỚI
Vân Anh quan niệm, công việc lao động nghệ thuật của nhà thơ, cũng vất vả, gian truân, như hành trình của những phu tìm trầm, phải vượt suối, trèo non, giữa rừng xanh núi thẳm, nếu muốn tìm được những loại trầm quý hiếm.
"Tìm trầm" là một tập thơ mỏng, nhẹ, chỉ có 27 bài (gồm 25 bài và 2 chùm thơ 4 câu, 2 câu). Nhẹ nhưng mà nặng, bởi sức chứa các thông điệp được tác giả gửi gắm trong các hình tượng thơ thật đa dạng, phong phú.
Có khi là thái độ quyết liệt, gay gắt chống lại cái ác, cái trì trệ, giáo điều (Bóng âm, Trăn trở). Có khi là sự thấu cảm về những hy sinh, mất mát của đồng loại (Giọt đau, Phác thảo chân dung nhà giáo , Đàn bà và Chiến tranh ). Có khi là niềm tự hào về quê hương xứ sở (Xứ Nghệ). Có khi là sự tri ân với các bậc sinh thành (Mùa tuổi). Có khi là một cảm giác cô đơn, chơi vơi, sám hối… khi phải đối diện với chính mình… (Trái tim thức giấc).
"Tìm trầm" không dễ đọc, bởi tính khái quát, tính hàm súc, tính triết luận xuyên suốt tập thơ. Độc giả khó tiếp nhận được hết các thông điệp tiềm ẩn trong các câu chữ, các tín hiệu nghệ thuật đặc biệt là tính ẩn dụ. Nhưng chính sự không dễ đọc đó, lại kích thích sự tìm tòi, khám phá đối với các độc giả yêu thơ.
Cứ lướt qua tựa đề các thi phẩm cũng đã cảm nhận được một phần: Đàn bà và chiến tranh, Bóng âm, Đỡ hài nhi vũ trụ, Phác thảo đàn ông, Chiêm nghiệm, Ngộ giác, Trái tim thức giấc…
Đó cũng là dấu hiệu của một sự chuyển đổi bút pháp của nhà thơ Vân Anh. Nếu như ở "Hương thơm cỏ vắng" (1987, ở "Trái muộn(1991) nhiều bài còn thiên về bút pháp tự sự, miêu tả với thể thơ lục bát hoặc thơ Mới, thì giai đoạn sau ( với " Vọng về Xứ Phuống" , " Con sóng khát " , " Mùi Tuổi " , đặc biệt là " Tìm trầm " lại thiên về thơ cách tân, thơ suy tưởng, thơ triết luận, bằng những hình tượng mang tính ẩn dụ cao, bằng những ngôn từ mang tính khái niệm, bằng những cấu trúc chặt chẽ, gọn gàng. Ví như bài "Đàn bà và chiến tranh". Nếu với tựa đề "Đàn ông và chiến tranh" thì chẳng ai chú ý làm gì, vì "Trai thời loạn, gái thời bình" là chuyện muôn thuở. Lịch sử đã khẳng định, mỗi lần chiến tranh xảy ra, đàn ông ra trận và "cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi" là chuyện không tránh khỏi. Sự hy sinh to lớn nhất, là hy sinh xương máu. Nhưng trong cảm nhận của Vân Anh thì người đàn bà trong chiến tranh cũng chịu đựng, cũng hy sinh không kém gì đàn ông. Cuộc chiến đấu thầm lặng ở một mặt trận tuy không có tiếng súng nhưng sự sang chấn về tinh thần thì vô hạn. Cô đơn. Chờ đợi. Khát khao. Nhà thơ đã sáng tạo ra một hình tượng biểu trưng: Chiếc áo ấm người vợ gửi cho chồng nơi chiến trận được đan bằng những sợi Xuân Xanh của những người vợ lính: Nào sợi Buồn, sợi Nhớ, sợi Khát khao, mà sợi nào cũng dài đến khủng khiếp. Sợi Khát khao thì chăng dài đêm đông, "sợi Nhớ" thì căng cả bốn mùa. "sợi Chờ" thì không thể tính ngày, tính tháng… Để rồi chiêm nghiệm:
" Trải trường chinh giữ nước
Tình yêu của đàn bà
Bom đạn của chiến tranh
Cùng vào trận
Hãy tặng đàn bà
Bình yên " .
Nhà thơ đã đọc được những điều sâu kín nhất từ trong tâm khảm của những người phụ nữ trên trái đất này. Rằng: Điều họ sợ nhất là chiến tranh. Rằng: điều họ khát khao nhất là bình yên.
"Bóng âm" cũng thế. Ở đây tác giả đã vận dụng một khái niệm vốn có trong triết học phương Đông từ thời cổ đại: âm và dương. Hai phạm trù như đối lập nhau. "Âm" được nhân hóa như một bóng ma chập chờn cản đường phía trước, như một tên đồ tể, một thằng "nghịch tử" sẵn sàng "vung gươm sát phạt" những "cái mới đang nảy mầm", đang "trổ lá, vươn cành", đang "dâng hương, dâng quả".
Với "Bóng âm", tác giả muốn xác lập một vấn đề của đời sống: cái ác luôn rập rình, hiện hữu quanh ta như một bóng ma. Phải tiêu diệt nó, loại bỏ nó ra khỏi đời sống xã hội, thì mới mong bảo vệ được: "Trí tuệ - Tâm hồn - Nhân cách". Thái độ của tác giả đối với cái ác thật là quyết liệt, gay gắt:
"Khi bóng âm là nghịch tử
Sao nhân loại chần chừ ?(!)"
Khi xã hội đang lẫn lộn giữa "thiên thần và ác quỷ", thì phải tự sắm cho mình một chiếc "kính chiếu yêu" để diệt trừ ác quỷ.
Sự tưởng tượng, sự liên tưởng trong thơ Vân Anh thật dồi dào. Hình tượng "Con tàu" trong "Bản tình ca bất tử" là sản phẩm của trí tưởng tượng kì vỹ. Tác giả đặt tên cho con tàu là "Hành trình trái đất". Tàu chạy xuyên lục địa, nhưng chỉ qua 2 ga "Khởi Thủy" và "Tận Thế". Tàu chỉ chở có 2 loại người: "Thiện và Ác". Mọi việc diễn ra trong cuộc hành trình bất tận này, chung quy lại cũng chỉ nằm trong các cặp phạm trù "Chiến tranh và Hòa bình", "Bi thương và Hùng tráng", "Hạnh phúc và khổ đau". Đó là quy luật vận hành của đời sống. Và tác giả tưởng tượng, khi con tàu chạy đến ga cuối cùng, ga "Tận Thế" sẽ chìm vào lỗ đen vũ trụ… thì trên không trung vẫn vang vọng những bản tình ca.
Tác giả muốn nêu lên một chân lý: Mọi thứ có thể mất đi, nhưng Tình Yêu - Tình Người thì tồn tại vĩnh hằng. Quang Huy trong bài "Hư vô", cũng có một quan niệm tương tự:
"Cái gì cũng chỉ một thời…
Cái gì rồi cũng tiêu tan…
Cái gì rồi cũng hư vô
Cái gì rồi cũng rụng rơi
Quả nơi vườn cấm, hoa nơi địa đàng
Chỉ còn mãi với thời gian
Tình yêu từ thuở hồng hoang dại khờ
Thơ Vân Anh, có sự kết hợp khá nhuần nhuyễn giữa trí tuệ và cảm xúc. Điều đó được thể hiện ngay từ cấu trúc của tác phẩm. Những điệp khúc, điệp ngữ, những câu ngắn, câu dài, những dấu chấm, dấu hỏi… tất cả đều mang những giá trị thẩm mỹ. "Trái tim thức giấc" là một ví dụ:
Ta ngủ yên rồi
rừng già cổ sơ nằm sâu trong đất
ôm giấc mộng đen!
Ta ngủ yên
hổ nằm dài cũi sắt
vuốt mềm nhung
nanh trơn lụa!
Ta ngủ say
hồ trên núi
uống cạn cả bầu trời!
Sao người đào vỉa than
cho tan mộng ngàn năm?
Sao người mài nanh vuốt nhọn
cho chúa sơn lâm thở giọng say mồi?
Sao người ném sỏi xuống mặt hồ
vỡ ngàn mảnh trăng trong?
Bài thơ ngắn nhưng có 2 phần rõ rệt:
Phần 1: giọng điệu khẳng định với 3 điệp ngữ: Ta ngủ yên rồi và với các dấu chấm than cuối câu.
Phần 2: Giọng điệu nghi vấn cũng với 3 điệp ngữ: Sao người và với các dấu chấm hỏi cuối câu.
Sự liên kết về hình thức hoàn toàn phù hợp với từng ý thơ trong từng câu, tạo nên một thi phẩm nghệ thuật hoàn chỉnh.
Cái hay của "Tìm trầm" còn là sự kiếm tìm những khía cạnh mới trong một đề tài cũ, thậm chí rất cũ, để rồi có cách cảm nhận mới, cách nói mới, đưa đến cho bạn đọc những giá trị thẩm mỹ mới.
Thử đọc một đoạn trong bài "Nhớ Cụ Nguyễn Du" thì ta sẽ thấy chị không chỉ đối thoại với Nguyễn Du mà còn đối thoại với chính chúng ta.
Thương Kiều hay Cụ thương thân
Phong trần rồi lại phong trần … chẳng vơi?
Vu oan buộc tội bao người
Xảo nguyên mưu cũ, mới tươi bây giờ.
Sở Khanh lột xác nhởn nhơ
Bẫy tình bày đặt bất ngờ … Chốn yêu.
Quan tham ra giá dễ chiều
Còn quan xử kiện cho Kiều … trớ trêu!
Trong tay luật pháp như diều
Tội cao, tội thấp, ghét yêu … tùy người.
"Trăm năm trong cõi"… khóc cười
Lương tâm đem bán đắp bồi quyền danh.
Ngày xuân … Nhớ Cụ mơ lành
Gươm thiêng Từ Hải tung hoành… nghĩa nhân.
Đọc "Tìm trầm", ta bắt gặp một Vân Anh rất bản ngã, rất cá tính, một giọng điệu thơ mạnh mẽ, khẳng khái, tự tin, kể cả khi viết về những nỗi buồn, nỗi đau riêng của bản thân.
Khi yêu, yêu hết mình. Khi ghét, ghét tận đáy. Không trung dung nửa vời.
Đọc "Dâng hiến", để thấy một Vân Anh như thế.
Trinh nguyên tình yêu
Ánh mắt người loạn nhịp tim ta.
Trinh nguyên dâng hiến
Trao nụ hôn
Mặt trời phụt tắt
Trái đất rơi vào hồng hoang…
Ta là đêm – ngủ say trong tấm chăn quên lãng
Người – Sứ giả bình minh thức dậy sự trinh nguyên.
Ở đây nhà thơ Vân Anh không nói về tình yêu đôi lứa mà nói đến tình người và sự sáng tạo khi có tình yêu thí sẽ đánh thức được tiềm năng của nhân loại để tạo ra những giá trị của cuộc sống.
CHO MÌNH VÀ CHO ĐỜI
Vân Anh đã bộc bạch một cách chân thành: "Trong cuộc đời bao điều không thể nói/ Đành ngồi cầm bút viết ra lời…" "Tâm tư như cốc nước đầy/ Đừng thêm giọt nữa đắng cay sẽ tràn".
Thế là, với chị, thơ là nhu cầu tự thân. Làm thơ, trước hết là để gửi gắm, là tự vẽ chân dung của mình, để bỏ ngõ nỗi niềm… và cũng để sẻ chia với mọi người về những vui buồn trần thế. Theo chị, thơ hay là thơ đến được với nhiều người. Có thể là thơ hay của một thời, cũng có thể là thơ hay của nhiều thời.
Chị hiểu rất rõ số phận của thi ca nên "Chẳng bao giờ nhận mình là thi sĩ của Ngày Mai/ Bởi xác tín điều này là … Độc giả tương lai".
Suy nghĩ như vậy là rất khiêm tốn và cũng rất minh bạch. Nhưng bằng vào những gì mà chị đã được trong sự nghiệp thi ca với hơn chục giải thưởng từ cấp địa phương cho đến trung ương, ta có thể hy vọng: Thơ Vân Anh không chỉ viết Cho Mình mà còn Cho Đời. Không chỉ là thơ của Một Thời mà còn là của Nhiều Thời.
* *
*
Nguyễn Thị Vân Anh, người con gái xứ Phuống, thuộc hạ huyện Thanh Chương, Nghệ An, mảnh đất giàu tiềm năng Văn hóa - Lịch sử. Mấy chục năm dạy Ngữ Văn ở trường trung học phổ thông và Năng khiếu thành phố, chị đã góp phần đào tạo nên bao tài năng văn chương cho đất nước, chị là một giáo viên giỏi thì đó là một Nghề. Cũng chừng ấy năm, chị đam mê sáng tác thơ ca, thì đó là một Nghiệp. Chính chất lượng các tác phẩm đã đưa chị trở thành Hội viên Hội nhà văn Việt Nam. Hy vọng sau "Tìm trầm", còn được đón đọc các thi phẩm mới của chị.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét