Chủ Nhật, 5 tháng 6, 2022

CẢM HỨNG TRỮ TÌNH - CHÍNH LUẬN TRONG THƠ HỒ PHI PHỤC - Bài viết của nhà thơ Vân Anh




(Đọc tập " Kỷ niệm văn chương" )

Tôi rất đâm đắc với ý kiến của nhà thơ Nguyễn Trọng Tạo: "Hồ Phi Phục có giọng thơ phảng phất triết học về cái đẹp".Thơ ông khó đọc, khó tiếp cận với hồn cốt của thi nhân – với tư cách một người làm thơ, tôi chỉ nêu vài cảm nhận về: "Cảm hứng trữ tình – chính luận" của thơ ông trong tập này.

1. Suy tư về dòng chảy lịch sử

(Một số bài: Dấu vết, Con chồn và Sao chổi, Yên Tử, Mùa thu Tiên Điền, Hoài niệm, Ngạo nghễ và buồn rầu, Chiến tranh).

- Từng giai đoạn lịch sử có những con người ưu tú về chính trị, kinh tế, văn hoá, VHNT, KHKT nhưng để tồn tại và phát triển dòng chảy lịch sử chính là số đông dân chúng. Trong bài "Con chồn và sao chổi" ông đã suy ngẫm về điều đó. Mùi xạ hương của con chồn, ánh sao chổi sáng loà trái đất là khoảnh khắc thăng hoa của cá nhân, còn bạt ngàn cỏ dại, biếu tượng cho thảo dân mọi thời đại đã kết nối, khai thông miền viễn của dòng chảy lịch sử nhân loại: "Vị chủ đồi sim chạy đâu/ Mùi xạ hương thơm khắp/ Vị khách vũ trụ bay qua/ Đuôi sáng vắt ngang bầu trời/… Người quan sát/ Thấy cỏ dại đầy dưới chân/ Và dấu hiệu tháng ngày qua/ Trầm lặng cái bóng của sự tồn tại.

Đến Yên Tử, ông ghi nhận tâm đức của vị vua biết lặn lòi loi nước giữa cõi nhân gian để hướng tới ngàn năm, làm nên sự bất tử về giá trị tinh thần cho dân tộc: "Người đi trong mây mù đỉnh núi/ Lặn lội trăm năm cho ngàn năm".

Cũng với cảm hứng đó. Trong "Mùa thu Tiên Điền", nhà thơ bày tỏ "chút tri âm riêng một mình thầm" với đại thi hào Nguyễn Du. Ở đây, im lặng không nói nên lời không phải là không tuyệt đối. Nếu Tố Hữu đã từng dám "Khúc vui xin lại so dây cùng Người" thì Hồ Phi Phục chỉ khiêm tốn ước nguyện: "Cùng chúng sinh nối dòng kiếp trước/ Dặm đường cát bụi bước bình tâm". Để bình tâm bước đi trong đời đầy cát bụi của sự nhiễu nhương, xuống cấp nhân thế quả là một sự khổ luyện, mà ta thấy ông đã phần nào làm được ở trong đời thực.

Một phút hoài niệm về quá khứ của bản thân hay của cộng đồng, tác giả cũng đưa ra một cách nhìn nhân bản: "Hoàng hôn cho bình minh/ lâng lâng vầng trăng/ Dừng chân cho người đi/ Trong veo ngày xanh" (trích Hoài niệm). Từ quy luật vận hành của vũ trụ (bình minh thay cho hoàng hôn) nhà thơ liên tưởng đến quy luật chuyển giao thế hệ trong mối tương thích. Phát hiện ở đây là tác giả muốn nói đến tâm thế thế hệ trước trong quá trình chuyển giao cho thế hệ sau – một niềm vui lâng lâng, trong veo thanh thản khi tre già nhường chỗ cho măng mọc để tiếp nối màu xanh sự sống. Sự hưng thịnh và suy vong là một đề tài mà ông thường triết luận trong thơ. Một tứ độc đáo giàu chất suy tưởng hiện ra trong bài "Ngạo nghễ và buồn rầu". Qua hình ảnh: "những cánh hoa/ nở hồng mùa xuân" rồi "Tơi bời rơi/ mùa hạ" tác giả khái quát bản chất sự sống có sinh là có diệt. Cũng như cặp song sinh trạng huống tâm lý ngược chiều của con người ngạo nghễ khi thành công và buồn rầu khi thất bại.

Thơ về chiến tranh, Hồ Phi Phục không khai thác theo kiểu lên án, phê phán, mà ông đi tìm căn nguyên của những cuộc chinh phạt, lò sát sinh của mạng sống con người – ông phát hiện ra rằng lịch sử chiến tranh song hành lịch  sử hình thành lãnh thổ quốc gia và ý thức bành trướng của kẻ cầm quyền – trong bài "Chiến tranh" ông viết: "Từ khi có hàng rào/ Là có ngay gậy gộc gươm đao/ Lịch sử những cuộc sát phạt triền miên/ Quay vòng lá rụng". Chính lòng tham của kẻ cầm quyền là ngòi nổ của chiến tranh: "Lâu lâu/ vua buồn/ Thèm ngôi cao Hoàng đế/ Thèm con gái vàng bạc/ Đất đai nhiều thêm nữa," và thế là xảy ra chiến tranh xâm lược "vó ngựa khua… mạng người như kiến" – Chỉ cần một hình ảnh so sánh: "Hàng rào thép gai/ Sinh đôi cùng chiến tranh hiện đại" là tác giả đã chỉ rõ cho người đọc sự chuyển đổi về vũ khí thô sơ gươm đao lên vũ khí hiện đại bom đạn nhưng lòng tham và hệ luỵ của chiến tranh chỉ có một mà thôi và ngày càng nặng nề hơn. Chiến tranh hiện đại còn có hai thủ phạm "kẻ cầm quyền – những tay buôn súng" và đầu tư tái thiết. "Lâu lâu/ Tỷ phú buồn hết việc/ Tỷ phú lo hàng ế/ Hàng rào thép gai dét gỉ/ khóc thầm". Tác giả đưa vấn đề "chiến tranh" vào ống kính vạn hoa của mình để soi rọi: "không có một nền ngoại giao chín chậm/ Họng súng đỏ lòm". Ông như đưa ra lời cảnh báo về chiến tranh thế giới luôn rình rập và nhân loại phải nỗ lực ngăn chặn.

2. Suy ngẫm về đời người.

Con người và cuộc sống nhân sinh vừa gần gũi vừa bí ẩn và là đối tác trữ trình của cảm hứng thi ca… Thơ của ông không kể, tả  mà luôn khám phá trầm tích về nó trong một loạt bài: Bãi ngang, Tự mình, Hoa đại, Ngày lại ngày, Không đề, Văn Cao, v.v…)

Mỗi lần ngắm con sóng Bãi Ngang quê nhà, ông tưởng nhớ thân phụ mình và ngẫm ra: sự sống cá thể bị mất đi nhưng sự sống tổng thể vĩnh hằng: "Một cuộc đời của sóng tan nhanh/ Trăm  cuộc đời của sóng – mước xanh biển khơi" để rồi đưa đến cho người đọc một sự an ủi về luật tử-sinh: Mỗi đời người sẽ bất tử trong huyết quản của giống nòi.

Cuộc sống của con  người là hành trình tìm kiếm những điều tốt đẹp và rất có thể đi hết con đường mà vẫn trắng tay. Thơ ông không chỉ phản ánh sự tìm kiếm ấy ở chân trời xa ngái mà sự kiếm tìm trong chính bản thân mình: Trong bài  "Tự mình" ông viết: Đi/ Đi mãi, thôi về nhà/ Tịnh xá/ tự mình tự có/ một giáo chủ/ cho mình". Phải chăng vị "giáo chủ" mà thi sĩ tôn thờ đó là sự bình yên trong tâm, an nhiên, hỉ xả trước đời? Ông có phát hiện lạ từ đời hoa mà ngẫm về đời người. Trong bài "Hoa đại", ngắm những bông hoa đại "man mác mùi hương khói đền chùa" là đánh thức trong ông một thuở ở quê "hoà âm điền dã" với kí ức sâu thẳm ùa về "tiếng gáy cu cườm cô đơn buồn rượi phía trời xa", với lời nối lãng đãng của người chị thân thương, mường tượng hình ảnh vị lương y của xóm thôn, ngắm sự thánh thiện của hoa mà lo lắng: "Cho cả người thân vất vưởng tự pha loãng mình trước những cám dỗ rẻ tiền" – Nói đời hoa là cái cớ, nhắc kí ức là để cảm hứng của ông thăng hoa những suy ngẫm đau đáu hồn hoa – hồn người: "Hoa đến chết khô  vẫn còn gợi mở/ Người tử tế cảm nhận hồn hoa/ Một thuở buồn lo hồn người". Buồn lo thì vẫn buồn lo những cái xấu đang băng hoại nhân cách phẩm giá con người nhưng không mất niềm tin vào con người – Đó là thông điệp của thơ ông: "Hoa đồng hành mãi với đời/ âm thầm sống/ êm đềm rơi/ Hoa toả hương/ lặng lẽ như người". Tác giả vẫn trở lại với chủ đề này trong bài "Ngày lại ngày" cho nên dù "mái tranh mòn mưa nắng" dù "cá bầm môi thành châu/ tiếng chim kêu vướng lồng/ mắt ai buồn đời trống", dù "ổ mối ruỗng chân đê" dù "người đi không ngoái lại…" nghĩa là những thách thức của cuộc sống mưu sinh dồn dập đến, nhưng nhà thơ vẫn nuôi hy vọng trong lòng bạn đọc: "Sông chẳng cạn kiệt dòng/ Rác rưởi rồi sẽ lắng/ Mạch nước đời mãi trong". Nhà thơ thường xúc cảm từ cảnh thường nhật để khái quát thành triết lý sâu xa; ông viết về người đi nơm cá trong bài "Không đề": "Trăng sao lọt vào nơm/ Anh say sưa bốc hốt/ Những ảo ảnh vĩ đại/ Rồi một ngày rã rời/ Buồn bã nhìn trời cao,/ Ước ao con cá nhỏ". Nhà thơ cảnh báo bi kịch của nhân loại: nhầm lẫn mà không biết mình nhầm lẫn. Cả một đời chạy theo những giá trị ảo nhưng đến lúc sức tàn lực kiệt mới nhận ra mình cần giá trị thực, thì đã muộn.

Nhà thơ cảm về cuộc đời của Lê-vi-tan, của Gô-gôn, của Albert Einstein, của Phờ-răng-cơ-lanh,v.v… Nhưng với riêng Văn Cao ông đã có một cách viết của người tri kỷ - Nếu không tri âm thì không dễ viết những câu thơ "độc vị" tài hoa siêu phàm cả trên lĩnh vực hội hoạ, âm nhạc của Văn Cao:

Chơi vơi thần tiên đường nét

Âm thanh lãng du cuối trời"

Và không thể hoá thân vào sự hoang hoải của nỗi buồn của thông của liễu –một nỗi buồn của nhân cách thanh cao, ngay thẳng nhưng cô độc trước đời của người nghệ sĩ lớn.

Không phải ngẫu nhiên trong tập, ông có 3 bài viết về hoàng hôn và hai bài về hồ nước. Hoàng hôn – cái khoảnh khắc linh thiêng giao thoa giữa ngày và đêm – Hoàng hôn như một tự kỷ ám thị cho tuổi xế chiều, phải chăng nó rất gợi với tâm hồn đa cảm và tư duy nghệ thuật mang tính triết lý của nhà thơ. Tôi vẫn thích nhất bài "Tứ tuyệt hoàng hôn". Xúc cảm trước cảnh hoàng hôn của đất trời mà tâm thế của tác giả lại rất "bình minh" tươi sáng, sinh sôi:

"Chim giăng bay lưỡi cày

Ruộng đồng mênh mông cao

Mùa màng trong chớp mắt

Nở rộ một trời sao.

Nhà thơ kết nối thời gian, không gian qua trí tưởng tượng của mình: Đàn chim sải cánh bay về tổ như những chiếc lưỡi cày lật luống cày trên đồng ruộng trời cao, trong phút chốc một trời sao mọc lên như mùa màng chín rộ.

Với 2 bài viết về Hồ I và II, thì cảm hứng trữ tình – chính luận của thơ ông rất đọng, từ hồ chứa nước mà tổng kết về lẽ sống dâng hiến của đời người: "Cuộc đời hồ - là cuộc đời tát cả những cuộc đời mưa" để ông đưa ra một hy vọng: "khi rừng vẫn mãi xanh/ khi mưa  vẫn mãi hiền hoà" thì hồ sẽ không bao giờ cạn, nguồn cội nhân văn mãi đầy.

Thơ của nhà thơ Hồ Phi Phục đều mang tính triết lý. Triết lý từ những điều bình thường mà cao thượng. Có thể có những hoài nghi, những ẩn ức, những dự cảm chưa lành nhưng vẫn giữ được niềm tin vào cuộc đời. Thơ ông như mùi thơm hoa đại, trầm mặc, tinh khiết và xin mượn hai câu thơ của tác giả để khép lại bài viết này:

 "Hoa toả hương

Lặng lẽ như người".


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét