ẨN SỐ NGÔN TỪ TRONG TẬP THƠ " TÌM TRẦM"
Bài viết của nhà giáo Lê Đình Hòa ( T.P Hồ Chí Mimh )
Nhà thơ Vân Anh tên đầy đủ Nguyễn Thị Vân Anh Hội viên Hội nhà văn Việt Nam với "TÌMTRẦM" tập thơ thứ 12 của chị. Dù chỉ 27 bài thơ nhưng được coi là 27 công trình nghệ thuật đắt giá -27 thông điệp về lẽ sống trên đời đang được nhiều bạn đọc quan tâm.
Mở đầu ta bắt gặp lời đề từ :
" lBóc dần vỏ bọc thời gian
Giữa đời ngậm ngải TÌM TRẦM …Nghĩa Nhân "
Đó là tiêu chí, là hướng đích của " TÌM TRẦM". Một "phu trầm" văn chương như chị thật đáng trân quý. Đi tìm ẩn số ngôn từ trong thơ chị là tìm cái hay,cái đẹp lẫn " hương thơm" giá trị đích thực trong vận dụng ngôn từ của tác giả. Có điều ngôn từ bao giờ cũng phải nằm trong văn cảnh tức trong cấu trúc bài thơ. Bàn về cấu trúc thơ nhà ngôn ngữ học hàng đầu Việt Nam cố PGS TS Phan Ngọc đã nêu rõ : " Thơ là một cách tổ chức ngôn ngữ hết sức quái đản" . " TÌM TRẦM" đã minh chứng cho điều đó. Đọc thơ chị ta cảm nhận sự đột phá mới vốn dĩ tác giả đã trút bỏ lối mòn trong văn chương .Đọc 27 bài thơ đều mang dấu ấn cho thơ cách tân-thơ đương đại. Tâm thế của nhà thơ mang tâm thức dòng chảy suy tư về mọi vấn đề của cuộc sống. Chị đã khoác lên mình những chất liệu tân hình thức để sẵn sàng cho những ngôn từ ẩn ý khi nhẹ nhàng, khi tung hứng khác người. bắt nhịp thị hiếu của công chúng đam mê văn chương thời hiện đại. Bản chất thơ là sáng tạo tìm cái Đẹp dâng Đời , nhất là khi cuộc sống thời hiện đại thì văn chương cũng phải cập nhật phong cách hiện đại . Âu cũng là quy luật muôn đời cho mọi lĩnh vực không chỉ riêng nghệ thuật. Đọc thơ "TÌM TRẦM" mỗi bài đều là những câu hỏi đang đánh thức trí não người đọc . Những tín hiệu nghệ thuật đang là những ẩn số ngôn từ . Đọc "TÌM TRẦM" không thể dễ cho độc giả. Thơ phải có sự "thách đố" và khi giải mã được ngôn từ thơ bỗng cảm hứng của ta sẽ thăng hoa đồng sáng tạo cùng tác giả. Đó mới là Thơ và Thơ hay ! Đó là một đòi hỏi dành cho người sáng tác từ người thưởng thức nghệ thuật của ngày nay.
Có người nói Thơ chị là thơ "bác học". Có lẽ nên nói thơ chị là Thơ trí tuệ. Bởi lẽ Thơ hay là Thơ kết hợp hài hòa , sáng tạo , sắc bén, sâu xa…giữa ngôn ngữ và tâm hồn, trí tuệ của Người Thơ.
" TÌM TRẦM" đã có những thành công về tính hình tượng và tính tổ chức cao (tính nghệ thuật). Thơ chị đa thanh-đa hình -đa dạng …trong hầu hết "TÌM TRẦM" .
Nhiều bài nổi trội, ta hãy đọc kỹ bài" XỨ NGHỆ" . Một công trình được xây dựng đầy trí tuệ và thách thức . Là người con Xứ Nghệ với tâm khảm da diết tự hào về một xứ sở của mình.
Điệp ngữ "Xứ Nghệ" được tác giả đưa vào đầu 5 khổ thơ. Điều đáng chú ý là tác giả đã khai thác triệt để thủ pháp "lạ hóa" nhằm gây cảm hứng cho mọi đối tượng. " Lạ hóa" tạo sự tò mò , suy ngẫm cho thơ. Thơ chị không theo một thể loại nào. Có những bài không vần lại giàu âm thanh, nhạc điệu . "Lạ hóa" từ cách chấm câu, ngắt nhịp. Nhiều câu thơ được đảo ngữ nghe lạ mà hay :" dòng đời trong đục thắt ngang lở bồi " miên viễn mùa xanh Nhân Kiệt", "Sưởi ấm giấc mơ người đàn ông lực điền" , "Hình hài cong dấu hỏi"…hay so sánh :"Sông Lam giải lụa xanh" để người đọc cảm nhận nước sông Lam trong xanh bốn mùa. Tác giả còn lấy sự vật thiên nhiên để ví và bỏ ngỏ ý tưởng tự hào về xứ Nghệ . " sao Thái âm " là âm tính mát lành để chỉ sông Lam . " Sao Thái Dương" là dương tính đầy sinh khí chỉ núi Hồng Lĩnh. Hai sự vật tượng trưng để nói về vùng đất " Địa linh Nhân kiệt". Ta bắt gặp luôn hai tín hiệu nghệ thuật đối nhau tạo nên sự nhịp nhàng cho thơ. Điệp từ , điệp ngữ , nói quá là cách bày tỏ nỗi tâm và sự chịu thương, chịu khó, một thân " nuôi già, dạy trẻ, tần tảo đảm đàn của người phụ nữ Xứ Nghệ khi đất nước có chiến tranh, tự " chiến đấu " với cảnh cô đơn đôi lứa xa cách giữa thì xuân xanh : "đổ lúa ra xay, đổ trấu ra xay, xay cạn đêm " …Bài thơ có dụng ý tôn vinh : Hai nhà thơ lớn của xứ Nghệ , Việt Nam : Hồ Xuân Hương - Nguyễn Du & hai nhà cách mạng từng đi tìm đường cứu nước : Phan Bội Châu-Hồ Chí Minh. Người đọc còn biết đến một Xứ Nghệ từng là cái nôi thời kỳ nguyên sơ đồ đá :" Chiếc muôi múc canh bằng đá / vá nhọc nhằn tằn tiện của Tiền Nhân ". Phần cuối bài "Xứ Nghệ", tác giả đã khéo dồn các từ ngữ vào những dòng thơ gần với thể văn biền ngẫu khi đọc lên ta nghe như nhừng dòng thơ đối nhau . Câu kết khá nội tâm là người con ruột thịt Xứ Nghệ " Nếu có kiếp sau / Ta lại về Xứ Nghệ đầu thai" . Đọc "ĐÀN BÀ VÀ CHIẾN TRANH" xoay quanh hình tượng SỢI THANH XUÂN , biểu trưng cho nhan sắc , sức sống mãnh liệt của tuổi xuân mà phải hy sinh cuộc sống mái ấm lứa đôi để cho chồng vì nước dân ra trận . Tác giả sử dụng điệp từ "sợi" kèm theo sau những tính ngữ: khát khao, nhớ, chờ, buồn đã chạm khắc chân dung nội tâm người đàn bà thời chiến ở hậu phương. Thơ mang hơi ấm dân ca-ví giặm càng tăng giá trị biểu cảm. Sự chịu đựng hy sinh của những người vợ còn đẹp hơn khi họ nuôi niềm tin chiến thắng ở chiến trường xa. Giọt nước mắt không chảy xuôi mà "lặn vào trong lóng lánh" đẹp- nhớ, buồn mà không bi ai, sầu não! Trong "GIỌT ĐAU" nhiều câu không có chủ ngữ nhằm gây sự tò mò. Hai từ "Giọt đau"vừa là tựa đề vừa là hình tượng nghệ thuật xuyên suốt tác phẩm, làm trung tâm cho ý tưởng bài thơ khi được dùng làm từ điệp. Tại sao tác giả lại dùng từ "giọt đau" vì đó là giọt đau thương chảy từ trái tim người thân của các liệt sĩ . Giọt đau "nức nở"khi mọi người đứng trước những nấm mồ hy sinh vì nghĩa lớn. Không chỉ chảy trên trần gian mà còn "chảy dưới những nấm mồ gió, đáy sông, đáy biển, đáy hồ…" Còn gì mất mát đau thương hơn nữa ! Và những từ điệp tạo nên những hiệu ứng nghệ thuật xúc động tâm can độc giả mà trước hết vắt ra từ nội tâm nhà thơ " Giọt đau đong đầy/ chảy vẹt bình minh/chảy mòn hoàng hôn" Những từ chỉ thời gian nối tiếp gia tăng dòng chảy liên tục của nội tâm từ hình thức biểu đạt . Những bài thơ giàu hình tượng như " THƠ TÌNH MÙA THU VIẾT TRƯỚC ĐỀN CHÍN GIAN" Chắc hẳn những người con dân tộc Thái quá ngưỡng mộ , quá tự hào với huyền thoại Tổ phụ Tào Lò Ý và người con gái của Trời Nàng Xỉ Đả . Những câu thơ tình ta nghe ru rỉ , "mơ hồ" mà hút hồn khi đứng trước ngôi đền huyền thoại ở huyện Quế Phong tiêu biểu cho mảnh đất nhiều danh lam thắng cảnh & con người cần cù , nhân hậu miền núi Tây Nghệ An.
Ở một không gian mênh mông biển cả ta lắng nghe nhà thơ đang " ĐỘC THOẠI TRƯỚC BIỂN ". Một bài thơ độc thoại nội tâm của tác giả rất độc đáo . Thơ mang dòng ý thức tựa văn xuôi . Nhà thơ có tầm nhìn xa và sự liên tưởng logic khi nhìn biển không quên từ nguồn …Thủ pháp nhân hóa, tượng trưng đã biến những sự vật vô tri thành nội tâm con người. Những ngôn từ đầy "thi tính" kết hợp điệp từ được tác giả vun vén tạo nên những tín hiệu nghệ thuật đắt giá. Nếu như phần đầu tác giả với giọng điệu ngôn từ rủ rỉ , nhẹ nhàng thì ngược lại ở phần sau là giọng điệu gấp gáp , hứng khởi .Từ điệp"có" và "cho" theo sau là những từ gợi tả tạo sự dồn dập , nín thở cho những dòng nước từ nguồn đổ về xuôi . Không phải tự nhiên mà có biển . Mà từ " Thác dữ dội, cuồng say". "Suối dịu dàng, lãng mạn". "Sông nhẫn nại,từ tâm" mới có Biển " Nhân hậu, bao dung nuôi lớn con người". Mỗi sự vật là mỗi chủ thể được gắn cho những cử chỉ , động thái , đức tính sát thực, tác động tạo thị giác, thính giâc cuốn hút người đọc . Một bài thơ "có hậu" nhất là ở câu kết tác giả đã dùng từ "thanh lọc" trước cảnh tượng mênh mông nước là khá tinh tế . Lọc "nước đục" để có "nước trong" từ đó rút ra triết lý sống : Cuộc sống như là BIỂN LỚN - Mỗi cuộc đời phải biết tự THANH LỌC mình , biết " gạn đục khơi trong " dành cho mình sự" trầm lắng " như những viên ngọc trai của tâm hồn , trí tuệ & nhân cách cao đẹp dâng đời
Chắc hẳn ta sẽ tâm đắc với " TRÁI TIM THỨC GIẤC", bài thơ vừa mang theo mình bóng dáng vừa hiện thực vừa siêu thực. Những vấn đề mà chị trăn trở. .Đoc" TRÁI TIM THỨC GIẤC" ba tín hiệu điệp ngữ " Ta ngủ yên rồi…/ Ta ngủ yên…Một kết cấu hai vế khá hay . " TA" đứng đầu ba khổ thơ "TA ngủ yên rồi-TA ngủ yên-TA ngủ say . Và cặp thơ sau " NGƯỜI" đứng đầu câu với lời hỏi "SAO" là cách đặt câu hỏi tu từ có giá trị khẳng định. TA -NGƯỜI ví như một cặp lứa đôi trữ tình để chở tải sự đánh thức tiềm lực sáng tạo hoặc ngủ yên-hoặc bị trói buộc – hoặc tự an bài. Một kết cấu hình tượng lạ đầy sáng tạo. Nỗi trăn trở có khi dằn vặt , bức xúc về một xã hội đang lên thì những ngang trái đáng báo động trong bài " BÓNG ÂM" l. Bóng Âm là nhân vật chỉ những "đứa con lỗi gen tư duy " , " đi trước cản đường"bánh xw lịch sử đi lên phía trước . Nguy hiểm hơn chúng nó tàn bạo " vung gươm sát phạt" những thành quả của cuộc sống dân lành "cái mới, cái mới,cái mới". Khi "đang dâng hương sắc", " đang dâng quả ngọt lành". Và tác giả đã lên án đó là "khối u ác tính" "âm thầm…hủy hoại những "Trí tuệ-Tâm hồn-Nhân cách". Và nhà thơ đã đặt ra một câu hỏi lớn trước thời đại : " Sao nhân loại chần chừ ? (!) . Bài thơ " Trăn trở " bỏ ngỏ bao điều mà mọi người cùng trăn trở với tác giả. . Tác phẩm có tính triết luận sâu sắc nên có khả năng khái quát cao về một thực trạng xã hội đáng báo động đỏ. Tác giả đã dùng một loạt hình ảnh ẩn dụ có giá trị biểu trưng : " Đó là thói kiêu ngạo, tự phụ qua so sánh " những ngọn núi lè tè tự phong là chót vót ", " những ào hồ tù đọng tự bão hòa " - Đó là sự giáo điều, rập khuôn trong tư duy" như những đường ray đã " hen rỉ tư duy định vị " , đó là những "vòng kim cô giáo điều tự ấn lên đầu làm khuôn mẫu" - Đó là những rô bốt người lắp ráp đồng loạt thiếu bản ngã trí tuệ , bản ngã tâm hồn & bản ngã nhân cách " Những phẩm cách dàn hàng ngang đồng phục / những dấu vân tay bản ngã nhạt nhòa " .Và đỉnh điểm của nỗi trăn trở biểu đạt trong 2 hình ảnh ẩn dụ đối lập để tác giả gửi thông điệp khẩn cấp cho bạn đọc : Sự Sáo Mòn sẽ khai tử mọi sự Sáng Tạo từ trong bào thai : "Gió sáng tạo mang hùng khí lạ / Sợ thổi lạc loài giữa sa mạc sáo mòn "
Cùng bộc lộ nội tâm trăn trở ấy nhưng ở những khía cạnh khác - Đó chính là trăn trở trong bản thể của mình khi độc thoại về nghiệp thi ca . Nhà thơ coi thi ca là nhu cầu tự thân để ký thác cách cảm , cách nghĩ , cách kiến giải những gì mình đã nếm trải ,chiêm nghiệm.- Làm thơ là bởi : " Trong cuộc đời bao điều không thể nói/ đành ngồi cầm bút viết ra lời" .Nhưng trước khi là nhà thơ , chị là một nhà giáo , một trí thức chị không ảo tưởng về mình " Chẳng dại dột nhận mình là thi sĩ của Ngày Mai " vì tác giả hiểu rõ " bởi xác tín điều này là ...Độc giả Tương Lai" . Tự nhận thức về bản thân là hành trình cam go của nhân loại .Sự sáng tạo nói chung & sự sáng tạo trong thi ca nói riêng thường là tỷ lệ nghịch với tuổi tác. Và đây là một sự thẳng thắn đối diện & cũng là một sự khích lệ mình của nhà thơ : " Khi tuổi đời Mùa Thu mấp mé/ sự Sáng Tạo là đứa con khó đẻ" .
Đi " Tìm trầm" -tìm Nghĩa Nhân trên đời với chị sao có thể quên công lao dưỡng dục của cha , mẹ chị. Một bài thơ thật xúc động khi nói về cái nôi Phuống & công lao đấng sinh thành đã nuôi dưỡng mình từ thuở nằm nôi.
" MÙA TUỔI" đã nói thay cho chị. Mở đầu là Phuống-một địa danh quen thuộc và nổi tiếng bên bờ sông Lam. Thật thú vị khi tác giả mở
đầu một câu thơ lạ : " Sông Lam chạy từ thượng nguồn mỏi chân dừng nghỉ ". Ờ , sao không tả con sông " chảy " mà lại là "chạy"? – "Chạy " mới hợp với "mỏi chân" và có "dừng nghỉ" mới "ngồi " từ đó ta hiểu mới có lắng đọng phù sa , từ đó mới hình thành bãi bồi lâu thành làng tên Phuống. Những từ "đắt": " Chạy, mỏi, dừng, ngồi" tạo nên một hình ảnh "nhân hóa" để có sự lắng đọng phù sa , thành bãi bồi lâu ngày thành làng tên Phuống. Và nơi đó mình chào đời . " chuồng hối gọi bầy gà/ Mẹ chộn rộn cơn đau/ Vỡ òa…Ta . Cách miêu tả rất hình tượng. Công lao dưỡng dục của đấng sinh thành với mình là quá lớn. Tình mẫu tử, phụ tử và tình quê hương sâu nặng khi những ngôn từ điệp nhấn mạnh sự hòa quyện con người với thiên nhiên được những tín hiệu nghệ thuật ta nghe hơi lạ ."Sữa mẹ thơm mùi phù sa", "thơm vị nhút, tương, cà / thơm trí huệ câu dân ca ví giặm".
Câu thơ cuối "MÙA TUỔI" cứ đọc lại cảm động khi nghĩ về cha mẹ nay khuất bóng nỗi tâm mình bỗng là " Ta ngồi dệt áo mồ côi …bốn mùa" dù chị đã có một gia đình riêng khá đẹp !
" TÌM TRẦM" Tập thơ hướng thiện, có giá trị nhân bản cao cả và tính nhân văn sâu sắc. Đi tìm và bênh vực , ca ngợi tình người ở nhiều góc độ từ gia đình đến xã hội, đồng thời lên án những kẻ vô cảm không chút tình người đang chà đạp lên cuộc sống. Là khát vọng một cuộc sống bình yên đánh thức mọi tiềm năng dâng đời theo thời gian. Là nỗi trăn trở về những điều lỏng lẻo , trái khoáy trong kỷ cương phép nước trên nhiều bình diện. Tất cả cho con người , cho mọi thời đại. Đọc TÌM TRẦM là đọc triết lý cuộc sống từ văn chương mà hiện thực. Là tập nghị luận chính trị -xã hội bằng thơ mà người cầm bút hướng đích.
TÌM TRẦM đã thành công lớn trong Thi pháp ngôn từ. Tác giả đã mạnh dạn , táo bạo kiếm tìm trong kho từ vựng đồ sộ để thu vén, chắt lọc , sáng tạo nên kho ngôn từ cho TÌM TRẦM của riêng tác giả với sự đa dạng-đa thanh -đa chiều mang dấu ấn riêng. Đặc biệt mọi chất liệu nghệ thuật được ẩn dụ-tượng trưng-lối điệp -so sánh và đặc cách cho thủ pháp "lạ hóa" nhằm nâng tầm tính hình tượng -một đặc trưng cơ bản của Thơ nhằm đánh thức trí não người đọc khác với mọi lối thơ trước nó. TÌM TRẦM không lệ thuộc vào thể loại mà viết theo dòng cảm xúc.Thơ TÌM TRẦM không từ trực giác mà từ tâm thức . Thơ dòng ý thức-lối thơ mang dấu ấn thơ trình diện . Chất liệu tân hình thức và chất liệu nhảy vọt tạo cho tứ thơ lạ-bí ẩn. Thơ TÌM TRẦM hẳn là thơ đương đại mà đối tượng thưởng thức nghệ thuật ngày nay đang đòi hỏi- là sự đáp ứng cần thiết như TÌM TRẦM !
Thành phố Hồ Chí Minh 7-7-2022
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét