Thứ Năm, 31 tháng 10, 2024

CHUYỆN VỀ CHA MẸ CỦA TÔI

CHUYỆN VỀ CHA MẸ CỦA TÔI

 Ghi chép

Ngày ấy, mẹ tôi là một cô gái đẹp nổi tiếng của làng Xuân Triều. Bạn cùng trang lứa trầm trồ mỗi khi ngắm mẹ. Ở cái vùng đồng sâu trũng lấm lem bùn lầy, mẹ rực rỡ như một bông hoa thị thành. Da trắng hồng như trứng gà bóc. Mũi dọc dừa thuôn thả dưới đôi mắt mở to màu đồng thaụ sẫm như tôn thêm cho khuôn mặt trái xoan thanh tú. Nhưng đó chưa phải là tất cả nét đẹp của cô gái Xuân Triều, vẻ đẹp như quyến rũ hơn bởi mái tóc tơ óng ả như một suối nước chảy chậm từ bờ vai tới gót chân và còn đổ mấy vòng xuống đất. Mỗi lần gội đầu, mẹ phải đứng lên ghế để chải. Ông ngoại tôi là một điền chủ có trong tay mười tám mẫu ruộng. Cũng may ông qua đời sớm (trước Cách mạng), ruộng đất phát tán cho họ mạc nên cậu cả và cậu hai đều vô sự trong cải cách ruộng đất. Có lần, nhân vui vẻ mẹ thủ thỉ kể lần đầu tiên gặp cha tôi. Cha là con trai một gia đình buôn bán kiêm kinh doanh ép dầu ở xóm Đa Dù. Ông được ông bà nội cho học hành rất tử tế vì dòng họ Nguyễn Doãn nhà tôi vốn cũng dòng dõi thi thư, có cụ Nguyễn DoãnVăn và Nguyễn Đoãn Giáp được tước phong của nhà Nguyễn, được lập đền thờ ở xứ Phuống gọi là đền Kẻ Nghe. Cha tôi nói, viết thông thạo tiếng Hán, tiếng Pháp. Khi biết ông bà định dạm hỏi cô gái cung của gia đình giàu có ở xóm Lằng ông lén ra chợ Phuống tìm gặp mẹ và giả vờ mua gà của bà. Chỉ qua vài câu đối đáp cùng với nhan sắc nõn nường của mẹ, cụ gật liền. Bây giờ có trọng đầu chút ít về khoa học tử vi, vẫn được bạn bè "khao" bia mỗi khi "phán" trúng về tiền vận của họ, nhưng tôi vẫn không lý giải nổi vì sao cha mẹ tôi sống yêu thương, hòa thuận, con có của nên như thế mà tử vi của hai cụ lại "trực xung" cả về can, chi, mệnh. Này nhé: ông là Giáp Thìn mệnh hỏa, bà là Canh Tuất mệnh kim, mà hỏa thì khắc kim, còn Canh thì kị Giáp, Tuất xủng với Tilín. Có thể nói cha mẹ tôi là một cặp đôi lứa rất lý tưởng. Bà thì vừa đẹp gái, lại thồng minh, sắc sảo, nói năng khúc chiết lí lẽ đủ đầy không ai "bẻ" vào đâu được. Bà lại đảm đang, tháo vát, xuất thân là thôn nữ của gia đình đại địa chủ nhưng về "nhập vai" nhà chồng rất mau, sớm biết buôn bán nhanh, nhạy nổi tiếng một vùng. Còn ông vừa có học vấn hiểu biết lại hiền lành, con nhà gia thế.! Ông hiền đến mức dân làng thuở ông sinh thời thường ví: "Hiền như ông Kí". Một lần đi chơi về, ông khoe với bà: Người ta chê tôi sợ vợ. Bà bảo: Ông nói chi với họ? Ông đáp: "Tôi cười chớ biết nói chí được". Bà tiếp lời: "Lần sau có ai nói như rứa ông cứ. nói lại với họ rằng tôi sợ "vỡ" chứ không "sợ vợ". Vỡ là tan vỡ hạnh phúc gia đình. Dân quê tôi, nói chữ "vợ" và "vỡ" gần như nhau. Mẹ tôi đã dùng lối chơi chữ rất đúng chỗ (*). Lại có lần, tôi vừa dắt xe đạp vào ngõ, ngõ nhà tôi bao quanh là hai dãy hàng rào bằng cây mạn hảo có rắc dây tơ hồng rất đẹp. Tôi chũlig lại vì nghe tiếng bà: Ông vá xong chưa ông? Nếu rồi, ông ra kì lưngcho tôi với! Thì ra ông đang ngồi trên bộ phản bằng nhãn đeo kính lão năm đi ốp để đính lại cái dải yếm cho bà. Còn bà đang tắm sau bếp nói vọng ra. Mãi sau này khi cuộc sống lứa, đôi của tôi trục, trặc cứ mường tượng cảnh đó mà ứa nước mắt Ông bà nôi của tôi rất đông con, cha tôi là con cả. Người ta nói: "giặc bên Ngô không bằng bà cô bên chồng". Mẹ tôi lại có những bốn bà cô, mới nghe mà khiếp đảm. Ây thế mà, tôi hiếm thấy cảnh riề nếp tôn ti, ấm cúng tình cảm chị dâu, em chồng như mẹ vá các o tôi. Các o tôi, (có o thứ hai, lcề cha tôi) còn nhiều tuổi hơn mẹ nhưng một mực tôn kính chị dâu, cứ một mực gọi "chị" xưng "em" lễ phép. Mãi khi tôi đã lớn, đầu các bà đã bạc híía mà cách xưng hô không thay đổi. Mẹ tôi sai bảo các o như em ruột không khách khí như người ta. Hễ đến nhà tôi là các o cầm chổi quét tước, rồi gánh nước ngoài sông Lam về đổ đầy thùng, đẩy vại. Có lần mẹ bảo o Nhuần (O út) xay năm yến lúa ngày mai là phải có gạo đém đến. O tôi "dạ" và mang lúa về làm ngay. Các o tôi hiền y chang cha tôi. Mẹ nói gì các o cũng một "dạ" hai "phai" (như là tiếng "vâng" từ phổ thông). Có khi bà nóng giận, nói sai về một người nào đó, các o tôi vẫn "phải" ra chiều gật gù lắm. Tôi bướng tính liền xen ngang: O buồn cười thật, mẹ con nói sai bè bè ra đó mà o cũng cứ gật cho đúng, thế mới lạ. o cười hề hề, nói: Nhịn chị dâu thì được nhờ, ai dại dột đi cãi bề trên hả cháu, o San tôi sống đến 92 tuổi mới quy tiên. Trước lúc mất một năm bà đến nhà tôi ở chơi mấy hôm. Lúc ngồi ăn cơm với tụi trẻ bà bùi ngùi kể, anh bà (ông ngoại các con tôi) ngày xưa thương bà lắm. Bà lấy chồng nhà nghèo, thỉnh thoảng về nhà mẹ đẻ kiếm bát cơm nguội. Biết bà xấu hổ với chị dâu, ông thường xuống bếp xới cho một bát com đầy, gắp một khúc cá to bưng lên mời bà ăn. Đến bây giờ o tôi vẫn nhớ như in về kỷ niệm tình huynh đệ của cha tôi.

Mẹ tôi bảo, ngày trước nhà tôi đến bữa ăn như một nhà ăn tập thể cơ quan bây giờ. Có ông bà nội, bảy người con, một cô dâu cộng là mười người' Nhà tuy khá giả, nhưng nếp sống vẫn tằn tiện kiểu nhà quê. Ngồi bên mươn (cái bàn ăn bằng tre ở thôn quê) bữa nào bà cũng phải xới cơm cho cả nhà đến sái tay. Loay hoay thếnào mà mẹ chỉ được một lượt xới là cơm hết nhẵn, yềìàm dãu rihà gia giáo phải ý tứ. Mẹ tôi ăn đói đến cả chồng cũng dấu không nói: Thếmà cha tôi cũng biết. Đầu bữa, ông cố ăn nhanh, còn hát cơm cuối thì nhẩn nha, đợi khi, mọi người thôi bữa, ông liền "lén" san qua bát cho mẹ…

Mỗi lần cha ngược Lường mua ngô, đỗ, lạc hay áp tải dăm thuyền hàng hóa xuống Vinh bán cũng mất độ một tuần. Nhà tôi sống chung "tam đại đồng đường" theo kiểu ba dãy nhà hình chữ u làm sao mà ông "tình cảm" với vợ trước khi đi. Thường ra bến, lên thuyền, lại giả vờ quên một cái gì đó, hôm thì cái điếu cày, hôm thì cái mũ, kiếm eớ để quay vào nhà. Mẹ hiểu ý, cầm chổi xuống bếp quét nhà. Lần nào cũng vậy, mẹ tôi nói - ông phải tìm cách ôm hôn bà để chia tay rồi mới chịu đi hẳn. Ngày trước, ông bà nội mua cho cha tôi một chức sắc là hương bản (đó là chân giữ sổ sách của làng) để khỏi phải sai vác như dân đinh. Thật trùng phùng xã Thanh Giang nhà tôi lên-hợp .tác xã cấp cao, xã viên lại tín nhiệm bầu cha tội làm chân tài vụ. Hai thể chế chính trị khác nhau, nhưng công việc của ông cũng chỉ là một. Bởi lẽ vẫn cứ là dân làng Phuống, vẫn là cốt cách hiền lành trung thực "thật thà như đếm" của cha tôi. Niềm tin yêu ông đa "thâm căn cố đế" trong lòng họ. Và ông không phụ lòng họ, giữ gìn thanh danh của bản thân và dòng họ.

Theo tôi, cha mẹ tôi vào lóp người có đầu óc tân tiến. Ông bà không đem tiền xây cổng ngăn nhà ngói, tích lũy vàng lá, vàng thỏi như những nhà giàu khác, Ông bà dốc của lọ cho con cái học hành. Hai anh tôi là những người đầu tiên của làng Phuống được đi học tại trường cấp 2 Đặng Thúc Hứa. Hai cậu "oách" hẳn lên nhờ đi dép cao su bốn quai, mỗi người có một tấm ni lon màu cánh gián rất sang trọng (quê tôi đại trà che mưa là mang tơi kết bằng lá) giá mỗi tấm ngang có hai tạ gạo ngon. Anh Hưng (thứ 2) lại còn mê nhạc, đòi mẹ tôi mua bằng được một cây đờn măng- đô-lin. Ngoài giờ học, anh cứ gảy tưng... tưng... tưng ra chiều thích chí lắm. Ngay thời ấy; nhà tôi đã nuôi thầy dạy học ở trồng nhà (một dạng gia sư bây giờ). Thầy Khả người Huế, thầy Điền người Hà Nội (sơ tán hồi chống Pháp) từng dạy kèm cặp các. anh tôi. Rồi cũng chính hai anh tôi có hai giấy báo đi học trung cấp chuyên nghiệp ở thủ độ làm nên một sự kiện: "rầm rộ" ở làng. Mẹ tôi có tính thích ldioe về con mình. Bà như người được của, thôi thì hôm nào đi chợ bà cũng vừa bán hàng vừa hào hứng kể về con. Có chuyên kể đến hàng chục lần mà'không chán. Hãnh diện nhất là lần anh hai tôi đi công tác ở Liên Xô (cũ) về phép, mang theo một cái ra đi ô chạy bằng dầu hỏa. Đêm đó cả làng nườm nượp kéo đến giữa sân nhà tôi. Mẹ tôi hỉ hả lắm. Bà nấu một ấm to chè xanh đặc quánh, múc bày la liệt. Trầu têm từng khay đầy ú. Lần đầu tiên dẩn quê biết được cái điều kì diệu là từ một hộp sắt phát ra tiếng nói từ xa: "Đây là Đài tiếng nói Việt Nam, phát thanh từ Hà Nội, thủ đô nước Việt Nam Dân Chủ Cộng hòa.,.". Còn cha tôi, khề khà, với bạn bè cao niên trên bộ phản nhãn uống rượu nếp nhắm với lạc rang dòn, vừa nghe đài, vừa bàn luận chuyện đông, tây kim cổ. Cha mẹ tôi cưng chiều con theò cách riêng của mình. Cố một bầy năm cô "vịt giời" mà ông bố cứ làm tất tật cho con. Tôi từng gói ghém hình ảnh cha tôi trong ý thơ:

"Ôi mua thu khấp khởi tựu trường.

Cha đóng vở dán cho từng chiếc nhãn

Chiếc cầu Khỉ cong queo gật gưỡng

Buổi qua cầu dành gánh cho con"

Cha tôi lành như đất. Ông có một cái rừơng đựng tiền cho hợp tác xã. Hai chị gái của tôi thỉnh thoảng "lén" mở khoá "Xin" vài đồng. Ông thương con nên im lặng chẳng nói gì. Tôi liền bảo với cha đưa chìa khóa cho tôi giữ. Tôi mà giữ thì chặt như rùa ngậm. Gác chị tôi biết chuyện "cú" lắm. Dân quê tôi phải đi quá cầu Khỉ trước nhà thờ đạo để sang bãi sa bồi trồng lạc trồng ngô. Trời ơi? Gái cầu, nghĩ lại mới kinh dị làm sao! Trên là một cây tre để vịn tay vào, dưới là hai cây tre buộc lại đặt trên mấy cái cọc cầu bắc qua con lạch nhỏ để đi. sẩy chân là rơi tõm xuống lạch nước chày xiết, sâu ngót nghét ba mét. Cha không cho chị em chúng tôi gánh lạc, gánh ngô qua cầu. Ông thưòng bảo: Con gái yếu bóng vía, qua cầu gánh nặng đêm về nằm ngủ nói mê, hét hoảng tội nghiệp? Thế là ông gánh đỡ cho cả ba chị em. Tôi nhõng nhẽo bắt ông cõng qua cầu cho khỏi sợ.

Mẹ tôi rất nghiêm khắc với các chị tôi. Chị nào lớn, đến tuổi cặp kè với bạn trai là bà giữ riết. Dân quê từ xa xưa sợ nhất trong nhà có con gái lớn "không chồng mà chửa". Sau này, tôi tốt nghiệp đại học, ra công tác ba, bốn năm mà chưa chịu xây dựng gia đình. Chị Lý, chị thứ năm của tôi cự nự: Hồi tụi con sống trong nhà, mẹ ngăn đe chuyện chồng con cả ngày. Sao bây giờ dì út của "cụ" cứ nhởn nhơ mà cụ tỉnh bơ không có "ý kiến" gì. Tôi đọc sách trên gác sàn nghe trộm tiếng bà nói khẽ: Nó khác, chúng bay khác. Tính nó ương bướng như con trai, chạm phải tự ái của nó, nó lại trèo cổ lên xà nhà cũng nên. Tôi cười thầm. Tôi có tính hay để ý vặt. Từ tấm bé cho đến khi cha tôi qua đời, tôi thấy ông bà luôn nghỉ chung một giường. Tôi chưa bao giờ nghe hai cụ cãi nhau một lời. Nhìn vẻ ngoài, người la tưởng nhầm bà lấn lướt "cai" chồng. Thực tế cung cách làm vợ của bà, liên hệ lớp trẻ bây giờ, vợ chồng đối xử với nhau mà ngán ngẩm. Lúc nào nói vói ông, bà cũng nhẹ nhàng. Bát chè xanh, bà bưng hai tay mời ông uống. Lúc nhà giàu có cũng như khi sa sút, bữa ăn nào mẹ tôi cũng dành miếng ngon gắp lên đầy bát cho ông. Bà thường nói: Cha ông dạy "con nuôi cha không bằng bà nuôi ông". Mẹ tôi bảo cha: Tôi ước sáu này ta cùng "đi" một lúc, người nàồ phải ở lại sau cũng khổ. Tôi chợt nhớ câu chuyện của anh bạn. Trời mùa hè anh đi xe đạp năm cây số về ăn cơm nhà. Bữa ăn có canh rau tập tàng, anh thèm mấy quả cà muối. Vợ anh cau có: "Nhà này chỉ mỗi ông ăn cà, muối làm chi cho lích kích". Thế đấy! Nhỡ đến cảnh mẹ tôi nuôi ốm cha ba ăm liền mà thương. Bà lo cho ông đi hết viện huyện, viện tỉnh và cả Bệnh viện Bạch Mai. Khi no thầy đủ thuốc, phát hiện cha tồi bị ung thư đại tràng, bà bảo các con đưa ông về nghỉ ngơi những ngày cuối cùng. Nửa năm trời lập mệnh để "đi"cha tôi bỗng trở nên khó tính. Chỉ có bà là, người chiều đúng ý ông. Sáng ra, nghe tiếng lợn kêu "eng...éc" ở phía nào là bà cầm ấm đi hướng đó để mua lòng lợn cho cha, lại còn đèo xin thêm một ấm nước lòng nóng rẫy cho ông uống. Có bận đang nghỉ trưa ông bảõ tôi đi mua một cặp bánh ấp (đó là loại bánh cặp hai khô một ướt tức là hai cái bánh đa nướng kẹp một xếp bánh cuốn ở giữa có hành mỡ phi lên rưới vào). Tôi có ý chần chừ vì ngliĩ cha vừa ăn cơm xong, mẹ tôi bảo tôi phải đi mua cho cha con bằng lòng chứ ông ăn hết bao nhiêu, người già lại đau ốm, hai lần con nít (trẻ con) ấy mà!

Tôi không bao giờ quên lần đưa cha đi Hà Nội. Dù tốt nghiệp đại học, tôi vẫn là cô gái quê. Anh trai tôi làm việc ỏ' Hà Nội thi lại đi công tác nước ngoài, anh Hường (anh trai cả) lại làm bác sĩ tít tận lâm trường Sơn Dương chưa kịp về. Chị dâu và tôi không làm sao xoay xở cho ông vào viện được. Bởi lẽ đó là thời chiến, bệnh viện Trung ương rất hạn chế nhận bệnh nhân nội trú. Thế là lần đầu tiên lòng hiếu thảo đẩ giúp tôi tìm cách ứng xử tình huống. Người khám cho cha tôi là một vị bác sĩ có vầng trán cao rộng, mái tóc đã hoa râm. Đặc biệt đôi mắt ông nhìn rất hiện từ, phúc hậu. Tôi sực nhớ cậu mẹ thường dạy: Khôn thì khôn cho người ta hãi (là sợ, nể trọng) dại thì dại cho người ta thương, dở dở ương ương làm cho người ta ghét. Tôi phải tỏ rõ sự ngu ngơ cho vị bác sĩ thương. Thấy cha con bệnh nhân ở tỉnh lẻ ra thủ đô, cha thì già, tật bệnh, con gái còn trẻ dại, lại lớ ngớ, ông ấy thương thật. Liền viết bệnh án cho vào viện ngay. Gần mấy chục năm nay qua trải nghiệm tôi mới hiểu vì sao cha mẹ tôi sống hạnh phúc sum vầy làm vậy. Bởi ông bà rất đỗi yêu thương nhau, hiểu hết cõi tính tình của nhau. Bà yêu thương, kính nể ông, làm bầu bặn với ông, lại dựa dẫm về mặt tinh thần vào ông như tình cha, tình mẹ; tình huynh đệ. Còn ông, ông yêu bà, hiểu bà từ chân tơ kẽ tóc, cưng chiều bà theo kiểu như ông bà ngoại ngày xưa, lại trọng nể bà hết sức, khi cần biết nghe bà khuyên giải. Thời còn trẻ có lúc ông cũng ham đánh bạc. Mà cái trò đỏ đen dây vào thì "mê" lắm. Y như "bắt cóc bỏ đĩa". Cứ rủ ông về phút trước, phút sau đã trộn trạo đi ngay. Một lần, bà dò la được sòng bạc nơi ông đang say sưa. Bà mật báo với ông nội cùng chú Niêm, chú Sự (chú một của tôi) đi theo. Các con bạc đang ở thời điểm mê đặc. Bà nhảy ập vô, thổi tắt đèn, miệng hô hoán ầm ĩ, còn tay chụp lấy tay cha tôi kéo chạy. Như ong vỡ tổ, ai nấy lúc đó "thần hồn nát thần tính" xô nhau chạy tháo thân. Trời tối như hũ nút, ông bị kéo xềnh xệch, khi về đến nhà mới hoàn hồn biết rằng không phải mình bị bắt mà được, cha, vợ cùng các, em trai "hộ tống" về nhà an toàn. Sau đận ấy, cha tôi thôi hẳn trò cờ bạc... Một kỷ niệm như huyền thoại về phút lậm chung của cha tôi. Đó là việc; mẹ đã trún vào miệng cha tôi một ngụm nước chè xanh cuối cùng ở cõi dương gian. Đó là đêm giữa thu chớm lạnh. Mẹ, các anh chị và tôi tề tựu bên giường bệnh của cha. Cha mệt và yếu đến mức không thể nói được gì. Thế mà bà vẫn hiểu được ông muốn bà cho uống nước. Sau này khi đã nguôi ngoai phần nào thương khó, hỏi về việc đó, mẹ tôi bình thản nói: Mẹ nhìn vào mắt cha con và nhận ra đỉều cha mong muốn. Chao ôi? Nếu không phải chuyện thật một trăm phần, trăm thì tôi đã cho nhà văn nào đó khéo hư cấu. Những ngày chăm chồng ốm, bà thường rủ rỉ với ông. Ông Ốm đau còn có tôi, con cái đứa nào có việc đứa ấy, về phép dăm ba bữa lại phải đi ngay. Rủi sau này, đến lượt tôi "lập mệnh già", không khéo lại khổ... Cha tôi cầm tay bà nâng niu, vuốt vuốt một cách âu yếm, yếu ớt nói: Trời "chế" cho bài bà ở hiền gặp lành, "tích thiện phùng thiện" bà không đau lâu ốm dài như tôi mô mà sợ, bà sẽ "đi" rất khoẻ khoẳn". Lời cha rất ứng nghiệm. Mẹ tôi chỉ bị một cơn nhồi máu cợ tim rồi đột ngột qua đời đến nỗi tôi không kịp gặp. Những năm tháng còn lại một mình, mẹ có tôi là gần gũi nhất vì tôi dạy học cấp 3 trường huyện. Mẹ có tính cực đoan trong tình cảm. Yêu ai thì hết lòng muốn san sẻ nửa gia tài mà cho. Còn ghét, nói trộm vong linh bà, mẹ muốn xúc đổ đi cho khuất mắt. Tôi được "di truyền" cái yêu ghét rạch ròi của bà. Bà có chị Trực là láng giềng đi lại rất thân. Nhưng tình bạn vong niên của một già, một trẻ nhiều khi cũng chẳng "cơm lành canh ngọt". Tôi tìm ra một quy luật rất thú vị. Hễ chiều thứ bảy về tới nhà, ra sau vườn ngó thấy "cửa khẩu" hữu nghị quan của hai nhà bỏ ngỏ thế là tôi liền tíu tít hỏi, thăm chị Trực ra sao. Nếu thấy dấu hiệu "cấm vận", bằng một nhành tre gai rấp lại giữa hai nhà thì phải ngậm miệng như hến, nếu vô ý hỏi han là được nghe "ca nhạc nặng" ngay tức thì. Có lần tình bạn của họ đang ở giai đoạn "chiến tranh lạnh", dun dủi thế nào mẹ con tôi đi chợ gặp chị ta đi ngược chiều. Tôi giả vờ ngó lơ ngoài sông Lam coi như không thấy để tránh câu chào. Bà khoái việc "giận lây'' của tôi lắm, khoe ngay với mấy bà bạn hàng ở chợ: Con Giang nhà tôi tuy dạy cấp 3 nhưng nghe tôi một phép. Tôi giận con mụ Trực là y như rằng chạm mặt, nó cũng không thèm chào. Bà có biết đâu rằng sau cuộc đối mặt "mất lịch sự" đó, tôi phải đi đường vòng đến nhà chị láng giềng xin lỗi. Tôi phân bua: Mẹ em đang giận chị, nếu em chào chị, mẹ em buồn, rồi bà tổn thọ, em mất nhờ, chị thông cảm cho em việc hồi chiều... Chị Trực cười xoà, rồi bảo: Ây chếty có chi mà lội với bơi. Tôi biết cô làm vậy để vừa lòng bà.

Có một tình thân nữa bà rất chí cốt, rất tôn thờ với bà bạn lởn tuổi hơn. Đó là bà Tốn, mẹ của Vân Hải, bạn chí thân của tôi; Mẹ thường bảo tôi: Giận ai thì giận chứ Vân. Hải là con không được giận phải luôn chơi với bạn. Tôi phì cười vì sự "áp chế" tình cảm rất đáng yêu của mẹ. Tình thương của bà dành cho con cái (đặc biệt là tôi) không gì có thể so sánh vì mọi sự so sánh đều không xứng với tình mẹ của bà. Thuở nhỏ, anh Hường của tôi, thầy Thuốc bảo yếu tim, bà thường mua tim lợn nấu cháo cho anh. Bà bảo: Anh con ăn hàng mấy trăm quả tim lợn mới phổng phao như thế. Đến nỗi khi anh đã có vợ con, về phép, đi chợ bà vẫn không quên mua quả tim về nấu cháo sáng cho anh. Còn anh Hưng từ những năm 60, vợ con đề huề rồi, khi phát hiện bị đậm phổi, cần phải nghỉ ngơi điều dưỡng; Anh xin ý kiến một là đi điều trị theo chế độ nhà nước hai là về nhà. Bà bảo ngay tôi biên thự nhắn anh về nhà. Mẹ tôi chăm anh sậu tháng trời, ăn uống bồi bổ đây đủ lại còn cưng chiều như trẻ con. Mẹ tính thích con mở mày mở mặt với thiên hạ nên tằn tiện dành tiền mua sắm cho con. Thời sinh viên bà đã mua cho tôi một chiếc xe đạp phượng hoàng xích hộp theo giá phân phối của cơ quan chị Loan tối làm bên bách hóa ở Quán Lào (Yên Đình - Thanh Hóa) với giá 392 đồng (lương tập sự của tôi mỗi tháng chỉ 46 đồng 5 hào). Ra đi dạy bà mua ngay một đồng hò Liên Xô (cũ) hiệu Slavơ 150 đồng mới cứng, một cái đài chạy pin Nationna với giá 400 đồng. Mỗi lần chủ nhật về thăm mẹ, lòng tôi náo nức lắm. Cứ chiều thứ bảy mẹ ra ngõ đứng dưới gốc cây me ngóng ngược về xứ Giăng trông con gái út về. Cả tuần, ai biếu gì mẹ cũng dành:chờ tôi về cùng ăn; Bữa cơm nào, bà cũng đăm đăm nhìn tôi ăn với đôi mắt rạng rỡ sung sướng như chính mình đang ăn vậy. Bà nhạy cảm lắm, biết món nào tôi không đụng đũa là vội vàng đứng dậy tráng vài quả trứng gà thế vào. Anh chị tôi đùa có ý "ganh tị" với sự chăm chút của bà, bà phân trần: Giàu con út, khó con út. Trong bầy con, nó thiệt thòi hơn cả vì được ở với cha mẹ ít nhất, nên mẹ phải bù chi thêm. Ý nghĩ của bà không chỉ dừng lại ở lòng thương con mà thấm thìa đạo đời. Để bây giờ làm mẹ của ba đứa con một gái, hai trai, tôi được xếp vào diện những người mẹ cưng chiều con nhất cơ quan, mà con tôi học giỏi và ngoan nhất. Có cô bạn đồng nghiệp nói bô bô với mọi người: Bà này ra ngoài thì băm bổ như hùm như sói mà về nhà lại chiều con quá đát y như làm tôi tớ cho chúng. Có lẽ cưng con ở trong tôi là "gen" trội của mẹ truyền sang: Tôi thường nghĩ quỹ thời gian là một tổng không đổi, nếu con tôi phải làm nhiều việc vặt trong nhà thì ảnh hưởng đến thời gian học. Mẹ thương tôi, tôi thương con cái tôi, có lẽ đó là sân băng cất cánh cảm hứng về tình mẹ cho tôi làm thơ mà bạn bè rất tâm đắc:

"... Mẹ lên hái quả mặt trời
Cho con đá bóng, mẹ ngồi mẹ xem
Hái vầng trăng nở đêm đêm
Mẹ cho con kết thành đèn trung thu
Trên đời mọi thứ phù du
Chỉ tình mẹ mãi thiên thu nặng đầy"

Tôi ngồi hổi tưởng chuyện cũ mà lòng rưng rưng... Sau ba mươi năm cha tôi khuất núi và hai chục năm tiễn biệt mẹ mãi mãi đi xa, trong một cuộc vui với bạn bè, anh Hải Thọ (một hoạ sĩ) bạn thân của tôi hỏi đùa: Nếu cho em ba điều ước, Tố Giang sẽ ước những gì? Tôi cười buồn mà bảo: Ba điều ước đối với em là quá xa xỉ, em chỉ cần một điều ước duy nhất đó là: Được trở lại tuổi hoa niên trong vòng tay âu yếm vỗ về của mẹ cha, giũa miền quê xứ Phuống, nơi ấy có một nếp nhà gỗ đóng ván hình chữ u yên ả náu mình giữa vườn cây cối bốn mùa trĩu quả ở bờ nam của dòng Lam Giang.

(Mùa thương nhớ về Mẹ và Cha
11/5 âm lịch - 8/8 âm lịch Nhâm Ngọ)

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét