Bài thơ : KHUNG TRỜI CŨ - Tác giả - Hòa thượng Thích Tuệ Sỹ
Đôi mắt ướt tuổi vàng khung trời hội cũ
Áo màu xanh không xanh mãi trên đồi hoang
Phút vội vã bỗng thấy mình du thủ
Thắp đèn khuya ngồi kể chuyện trăng tàn
Từ núi lạnh đến biển im muôn thuở
Đỉnh đá này và hạt muối đó chưa tan
Cười với nắng một ngày sao chóng thế
Nay mùa đông mai mùa hạ buồn chăng
Đếm tóc bạc tuổi đời chưa đủ
Bụi đường dài gót mỏi đi quanh
Giờ ngó lại bốn vách tường ủ rũ
Suối rừng xa ngược nước xuôi ngàn
Nguồn: Tuệ Sỹ, Giấc mơ Trường Sơn, An Tiêm xuất bản, California, 2002
Đôi mắt ướt tuổi vàng khung trời hội cũ
Áo màu xanh không xanh mãi trên đồi hoang
Phút vội vã bỗng thấy mình du thủ
Thắp đèn khuya ngồi kể chuyện trăng tàn
Từ núi lạnh đến biển im muôn thuở
Đỉnh đá này và hạt muối đó chưa tan
Cười với nắng một ngày sao chóng thế
Nay mùa đông mai mùa hạ buồn chăng
Đếm tóc bạc tuổi đời chưa đủ
Bụi đường dài gót mỏi đi quanh
Giờ ngó lại bốn vách tường ủ rũ
Suối rừng xa ngược nước xuôi ngàn
Nguồn: Tuệ Sỹ, Giấc mơ Trường Sơn, An Tiêm xuất bản, California, 2002
BÀI BÌNH CỦA NHÀ THƠ VÂN ANH
"MỘT SỰ NGỘ GIÁC VỀ CÕI NGƯỜI "
"Cõi Người" - Cõi Ta Bà theo giáo lý Nhà Phật là Vô Thường -Là Sắc ...Sắc ...Không...Không.
Bài thơ đưa ra một triết lý sống tích cực, để chúng sinh thấu đạt về cách sống Làm Người.
Tứ thơ toàn bài là dòng chảy tâm thức. Từ hệ quy chiếu "khung trời" Hôm Nay mà sọi rọi "Khung trời hội cũ" như một cách lội ngược dòng sông dĩ vãng để ta tìm lại ta!
Không gian & thời gian nghệ thuật ở đây là sự lồng ghép thì hiện tại & thì quá khứ để thi sĩ bỏ ngỏ các cung bậc suy ngẫm về nhân thế.
Ám ảnh từ câu thơ mở đầu của thi phảm:.
"Đôi mắt ướt tuổi vàng khung trời hội cũ"
Thẩm thi ca trước hết là cảm rồi mới đến hiểu. Cũng như quy luật của tình yêu lứa đôi; tia "chớp" ái tình lóe sáng rồi tiếng "sấm " sự hiểu vê nhau vọng theo sau. Ta đừng dùng trí tuệ để lý giải về các hình ảnh thơ như "đôi mắt ướt", "tuổi vàng" theo nghĩa cụ tượng của ngôn từ. Rất có thể là từ nền hiện thực tâm thế hôm nay mà nhân vật trữ tình hoài niệm về một "khung trời hội cũ" - nếu viết " khung trời cũ" thì biểu đạt cụ thể, nhưng đây là "khung trời hội cũ". Một khung trời ký ức đi ra từ tâm thức của ngày hội ngộ hay một thời trẻ rực rỡ như ngày hội thuở xưa xa. Hình ảnh "đôi mắt ướt', "tuổi vàng" đã cho độc giả tùy theo cơ địa tâm hồn của mình mà thỏa sức hình dung ra hiện thực tâm thế của thi sĩ: Rất có thể đó là một hồi tưởng cảnh thời tuổi trẻ vàng son hội ngộ mà điểm nhấn là "đôi mắt ướt" long lanh còn lưu giữ mãi trong tâm hồn. Cũng rất có thể là nền tâm thế hiện tại, "đôi mắt ướt" của nhân vật trữ tình rưng rưng kỷ niệm đẹp một thuở. Dẫu cảm theo cách nào thì thi nhân đều gửi cho bạn đọc về vẻ đẹp tâm hồn đa cảm của mình.
Không gian nghệ thuật lại tiếp diễn hiện ra trong "khung trời hội cũ":
"Áo màu xanh không xanh mãi trên đồi hoang".
Hình ảnh "Áo màu xanh" & "đồi hoang" không nhằm tả thực mà mang ý nghĩa biểu tương cho tuổi thanh xuân của đời người mang hoài bão khám phá cả một thế giới hoang vu, kỳ bí của sự sống. Nhưng theo năm tháng, khát vọng "xanh" đã phai nhạt... . Một tứ thơ mà phải trả giá bằng một đời chiẻm nghiệm "duyệt thế phương tri kiệm tiếu tần" (Cao Bá Quát).Đây là thông điệp gửi cho tuổi trẻ: Thời gian không chờ đợi ai, khi khát vọng đang xanh màu sự sống thì hãy làm điều gì đó cho mình & cho đời.
Mạch thơ tiếp nối là một cuộc độc thoại cuối hành trình "Ta tìm Ta" của nhân vật trữ tình trong thi phẩm. Một biên niên sử dùng năng lượng của sự ngộ giác để soi chiếu về cuộc đời một người mà mọi người nhìn thấy bóng dáng của mình trong đó. Từ tuổi bình minh có những lúc sống chơi bời lêu lổng "phút vội vã bỗng thấy mình du thủ" đến tuổi tàn đêm trầm tĩnh "thắp đèn khuya ngồi kể chuyện trăng tàn". Tác giả đã đưa ra hai biểu tượng sóng đôi:
- Hình ảnh hồn "núi lạnh" ẩn mình trong "đỉnh đá" & hồn "biển im" kết tinh" hạt muối" - " Đỉnh đá" & "hạt muối " muôn thuở" "chưa tan" biểu trưng cho sự bất biến của vũ trụ.
- Hình ảnh con người xuất hiện chỉ thoáng chốc trong đại vũ trụ trường tồn.
Và tác giả không "cao đàm khoát luận" về lẽ tử sinh mà nhìn nhận nó, chấp nhận nó như một quy luật tất yếu. Cõi Người là ngắn ngủi "cười với nắng một ngày sao chóng thế/ Nay mùa đông mai mùa hạ buồn chăng". Đây không phải câu hỏi hay một câu cảm thán mà như là một lời nhận xét một hiện thực khách quan để bày tỏ sự tĩnh tâm của mình.
Tác giả còn cho bạn đọc tiếp cận một cách suy ngẫm rất "đời" về thời gian vật chất & thời gian tâm lý của chúng sinh.
Cảm nhận về thời gian vật chất trôi vun vút "nay mùa đông mai mùa hạ". Nhưng thời gian tâm lý của tuổi trẻ & tuổi già thì lại ngược nhau : Tuổi trẻ thì thấy thấy trôi nhanh trong những "phút vội vã" cuộc chơi giữa không gian rộng mở , còn tuổi già lê thê buồn chán, cô đơn "đếm tóc bạc tuổi đời chưa đủ/ Bụi đường dài gót mỏi đi quanh" trong không gian chật hep"bốn vách tường ủ rũ".
Thông điệp về sự ngộ giác quy luật Cõi Người trong toàn bài thơ đọng lại trong lời kết :
" Giờ ngó lại bốn bức tường ủ rũ
Suối ngàn xa ngược nước, xuôi ngàn"
Chính lúc này trong không gian ảm đạm của thì hiện tại- Con người đã đi đến đoan cuối của hành trình, thì tìm cách "ngược nước, xuôi ngàn" để đếm hành trang ...xuôi nước , ngược ngàn của suốt cuộc đời mình . Đây không phải để hối tiếc, bi lụy mà để gửi một thông điệp thái độ sống :
Khi ngộ ra sự HỮU HẠN của Cõi Người thì nhân loại phải biết mình nên làm gì góp phần vào sự VÔ HẠN của GIÁ TRỊ SỐNG.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét