Chủ Nhật, 14 tháng 9, 2025

Bài của nữ si Hà Vinh Tâm về tập " Trầm tích thời gian.

"CHẤT NGHỆ" NHƯ MỘT LỚP TRẦM TÍCH LỊCH SỬ- VĂN HÓA TEONG THƠ VÂN ANH.

Bài viết của nữ sĩ Hà Vinh Tâm


Với tâm thức của một người con xứ Nghệ, khi cầm trên tay Trầm tích thời gian – tập thơ thứ chín của nữ sĩ Vân Anh (Nguyễn Thị Vân Anh, bút danh Vân Anh, Văn Tố Giang), tôi không khỏi dâng lên niềm xúc động. Xúc động không chỉ vì vẻ đẹp của thơ mà còn bởi hành trình gần tám thập niên sống và viết của một người phụ nữ đã dành trọn đời cho văn chương, từ bục giảng quê nhà Thanh Chương cho đến mái nhà chung Hội Nhà văn Việt Nam. Sau hơn nửa thế kỷ sáng tác, với 9 tập thơ riêng, nhiều công trình biên soạn, tiểu luận và ký, cùng 12 giải thưởng từ trung ương đến địa phương, nhà thơ Vân Anh đã khẳng định vị thế của một giọng thơ giàu bản sắc. Ở tuổi U80, cô vẫn tiếp tục làm mới mình bằng Trầm tích thời gian (NXB Nghệ An, 2025) gồm 62 bài thơ được hoàn thiện tại Trại sáng tác Đà Nẵng do Hội Nhà Văn Việt Nam tổ chức vào tháng 4/2025.Tiếng thơ của cô – như nhận xét của nhà phê bình Đinh Trí Dũng - "trầm tĩnh hơn, có chiều sâu hướng nội, với nhiều suy tư sâu sắc, những đúc kết, chiêm nghiệm về lẽ đời". Chính trong sự lắng đọng ấy, ta nhận ra "chất Nghệ" vừa là căn cốt văn hóa, vừa là bản lĩnh tinh thần kết tinh thành những vỉa trầm tích quý giá một miền đất ở tập thơ này.

Trong nghiên cứu văn hoá, "chất Nghệ" thường được hiểu vừa là địa phương tính (giọng nói, nếp sống, tính cách), vừa là căn cốt tinh thần: kiên cường, hiếu học, chịu thương chịu khó, nghĩa tình. Trong thơ Vân Anh, "chất Nghệ" không hiện lên trực diện như một khẩu hiệu, mà được bồi đắp thành các lớp trầm tích: từ thiên nhiên khắc nghiệt, lịch sử bi tráng, văn hiến lâu đời cho đến phẩm chất con người. Thơ, theo nghĩa ấy, trở thành "ký ức địa tầng", vừa lưu giữ vừa tái tạo bản sắc văn hoá xứ Nghệ nói riêng và làm nên cốt cách dân tộc nói chung.

 1. Thiên nhiên khắc nghiệt – Lớp trầm tích tự nhiên hun đúc nên bản lĩnh 

Xứ Nghệ là miền đất gió Lào cát trắng, hạn hán và bão tố. Thiên nhiên khốc liệt ấy đi vào thơ Vân Anh như một hình ảnh địa – chính trị – thân phận. Lớp trầm tích nền tảng, hữu hình và nguyên thủy nhất trong thơ Vân Anh chính là không gian địa lý đặc trưng của xứ Nghệ. Đó là miền đất của "gió Lào cát trắng, hạn hán và bão tố", nơi sự khắc nghiệt của tự nhiên không chỉ là phông nền mà đã trở thành một nhân vật, một yếu tố tham gia trực tiếp vào việc định hình số phận và tâm hồn con người. Trong thơ Vân Anh, thiên nhiên hiện lên trong một mối quan hệ đối thoại, biện chứng: vừa là thử thách khắc nghiệt, vừa là nguồn cội thiêng liêng.

Trước hết, thiên nhiên là một biểu tượng của sự gian khó, được khắc họa qua những hình ảnh đầy ám ảnh. Bài thơ "Đất và người miền Trung" mở ra một không gian sinh tồn khốc liệt: 

Đất Miền Trung cằn khô cong đòn gánh oằn gánh hai đầu Tổ quốc. 

Nắng hạ đốt cháy đồng gió Lào uống cạn sông. 

Hình tượng "đòn gánh" là một ẩn dụ kép đầy sức nặng: vừa chỉ vị trí địa lý gánh nặng hai đầu đất nước, vừa ám chỉ số phận lam lũ của con người miền Trung. Sự khắc nghiệt ấy không chỉ hiện diện trên đồng ruộng mà còn hằn sâu vào đời người, được cụ thể hóa trong bài "Vọng Quê": Từ oi nồng gió Lào rám tuổi xuân của Mẹ. / Từ gió bấc thổi buốt đời Cha. Thiên nhiên ở đây đã trở thành thước đo của sự hy sinh, là nguyên nhân khiến "tuổi xuân" của mẹ phải "rám" đi và cuộc đời cha thêm buốt giá. Tuy nhiên, trên nền khắc nghiệt ấy, thơ Vân Anh không sa vào bi lụy mà luôn tìm thấy một sức sống mãnh liệt, một sự đối trọng thiêng liêng. Nếu "gió Lào" là biểu tượng của sự hủy diệt, thì "Sông Lam" và "núi Hồng" lại là nơi hội tụ linh khí, nuôi dưỡng tâm hồn. Trong bài "Xứ Nghệ", cô viết:

Sông Lam dải lụa xanh đọng phù sa thái âm mát lành Địa Linh 

Chín chín ngọn Hồng Lĩnh nén linh khí thái dương miên viễn mùa xanh Nhân Kiệt. 

Sông Lam không chỉ là một dòng sông, mà là "dải lụa xanh" mang vẻ đẹp mềm mại, là nơi "đọng phù sa" nuôi dưỡng sự sống, là không gian "Địa Linh" (đất thiêng). Núi Hồng thì "nén linh khí" để sinh ra "Nhân Kiệt" (người tài). Sự đối lập giữa hủy diệt (gió Lào) và kiến tạo (sông Lam, núi Hồng) chính là cội nguồn làm nên cốt cách con người xứ Nghệ. Họ không gục ngã trước thiên nhiên mà ngược lại, hấp thụ chính sự khắc nghiệt đó để vươn lên, để hóa thân thành một phần của tự nhiên kiên cường: mười ngón chân hoá rễ cây bám đất/ mười ngón tay hoá cành lá hút cạn Mặt Trời. 

Như vậy, lớp trầm tích tự nhiên trong thơ Vân Anh là một không gian lưỡng cực, một trường đối thoại không ngừng. Chính trong sự giằng co giữa tàn phá và nuôi dưỡng, giữa gian khó và linh thiêng, thiên nhiên đã trở thành cái lò tôi luyện, hun đúc nên "chất Nghệ" dẻo dai, bền bỉ và đầy bản lĩnh.

2. Trầm tích lịch sử - ký ức cộng đồng

Nếu thiên nhiên tạo lớp nền, thì lịch sử làm dày thêm "trầm tích" của chất Nghệ. Trong bài Xứ Nghệ, Vân Anh tái hiện lịch sử qua những câu thơ dồn nén: 

"Những Phan Sào Nam
Những Nguyễn Tất Thành đã cồn cào cơn khát
lái con thuyền dân tộc vượt khơi xa…
Năm tháng đọng trầm tích một nền Văn hoá
Bao hiền tài được vỏ thời gian cất giữ trầm hương".

Ở đây, "trầm tích văn hoá" chính là ký ức lịch sử kết tinh thành trầm hương, từ Xô Viết Nghệ Tĩnh đến những danh nhân làm rạng danh dân tộc. Kết bài, nhà thơ khẳng định:

"Người Xứ Nghệ – chim Phượng Hoàng bốn phương sải cánh.
Nếu có kiếp sau
Ta lại về Xứ Nghệ đầu thai".

Biểu tượng Phượng Hoàng tái sinh từ tro tàn là cách Vân Anh hình dung bản lĩnh vượt lên của quê hương: từ bi tráng đến hồi sinh. "Chất Nghệ" vì thế không chỉ là quá khứ bi thương, mà là năng lượng tinh thần tiếp tục nuôi dưỡng hiện tại.

Không thể nói đến "chất Nghệ" mà bỏ qua truyền thống văn hiến, tinh thần phên dậu và hiếu học. Vân Anh đã nhiều lần khẳng định điều đó trong Xứ Nghệ:

"Xứ Nghệ…
Đại thi hào Nguyễn Du
Bà Chúa thơ Nôm Hồ Xuân Hương
Nơi hai dòng chảy Văn Chương dân dã, bác học hợp lưu".

Việc đặt Nguyễn Du và Hồ Xuân Hương trong một dòng chảy là cách khẳng định sức mạnh văn hoá - từ bác học đến dân gian - tạo nên căn tính Nghệ Tĩnh. Ở một tầng sâu khác, "phên giậu" còn là ý thức chính trị - địa văn hoá:

"Đất phên giậu che chắn Đông, Tây, rừng, biển
Trấn giữ ra Bắc vào Nam
Dẻo dai như đòn gánh gánh hai đầu Đất Nước".

Trong hình dung ấy, "chất Nghệ" là sự kết hợp của địa - văn: đất dữ nhưng sinh ra văn hiến, địa đầu phên dậu nhưng nuôi dưỡng hiền tài.

3.Từ ký ức cá nhân đến trầm tích cộng đồng

Một trong những điểm đáng chú ý là sự dịch chuyển từ ký ức cá nhân sang trầm tích cộng đồng. Trong nhiều bài thơ tự vấn như Bản ngã, Ngụ ngôn cho mình, Vân Anh khởi đi từ câu hỏi "Ta là ai?", nhưng kết thúc luôn neo vào cộng đồng, quê hương.

Chẳng hạn, Bản ngã viết:

"Ta là Ta, là duy nhất
tự mình thảnh thơi và tất bật
tự mình dối trá và chân thật
tự mình quẳng đi và gom nhặt".

Đây là đối thoại bản thể, nhưng ngay sau đó, trong Xứ Nghệ, cái tôi lại tan chảy vào tập thể: "Người Xứ Nghệ – chim Phượng Hoàng bốn phương sải cánh. Phát hiện ở đây là: thơ Vân Anh đã chuyển dịch từ cái tôi hiện sinh sang cái ta cộng đồng và chính sự chuyển dịch này đã tạo nên "chất Nghệ" như một lớp trầm tích tinh thần chung, chứ không chỉ là cảm xúc riêng lẻ.

Một trong những điểm đặc sắc ở Trầm tích thời gian là cách Vân Anh đối thoại với truyền thống: ví giặm, Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, Trần Hữu Thung, Pushkin… Truyền thống không chỉ là hoài niệm mà là chất liệu sống. Cô viết: "Hồn ví giặm chở ta về quá vãng/ Câu đò đưa lắng ngọt vị hồn quê… Chở mai sau cập về nơi cội nguồn". Ví giặm ở đây là ký ức tập thể, là "dòng sông ngầm" nuôi dưỡng tâm hồn xứ Nghệ. Các lớp trầm tích được lưu giữ không phải để đứng yên, mà để đối thoại với hiện tại. Bằng chứng là sự xuất hiện của những bài viết về bạo lực học đường (Dâng nữ sinh khép lại tuổi 17), về đại dịch (Lời ru mùa đại dịch), hay về thiên tai (Nghĩ vụn hậu cơn bão Yagi). Trong tất cả, thơ vẫn giữ "giọng Nghệ" - thẳng thắn, giàu chiêm nghiệm, luôn gắn số phận cá nhân với số phận cộng đồng. Điều này cho thấy một giá trị mới: "Chất Nghệ" không chỉ thuộc về quá khứ, mà còn là năng lượng để ứng xử với hiện tại và hướng tới tương lai. 

Bên cạnh đó, Trầm tích thời gian có 38/62 bài thơ tự do (chiếm 61,2%). Đây không phải ngẫu nhiên, mà là lựa chọn hình thức để giải phóng suy tưởng, chiêm nghiệm. Giọng thơ ở tuổi U80 được nhận xét là "trầm tĩnh hơn, có chiều sâu hướng nội". Nhờ đó, mỗi bài thơ trở thành một mảnh ghép trong "bảo tàng tinh thần" của chất Nghệ – nơi lưu giữ ký ức lịch sử – văn hoá bằng sức gợi của ngôn từ.

Theo đánh giá của PGS. TS. Đinh Trí Dũng, thơ Vân Anh "mang nặng tâm thế nữ giới, với những vần thơ đậm tính hiện sinh… ý thức sâu sắc về bản ngã". Chính sự đối thoại liên thế hệ này giúp thơ vừa neo vào căn tính địa phương, vừa vượt thoát để cất lên tiếng nói nhân văn rộng lớn.

Qua Trầm tích thời gian, Vân Anh đã kiến tạo "chất Nghệ" như một lớp trầm tích lịch sử – văn hoá. Thiên nhiên khắc nghiệt làm bền gân cốt, lịch sử bi tráng kết tinh thành trầm hương, truyền thống hiếu học và văn hiến trở thành di sản, trong khi ví giặm và điển cố văn chương là mạch ngầm nuôi dưỡng giọng điệu. Có thể nói, thơ Vân Anh là sự dung hợp giữa ký ức cá nhân và ký ức cộng đồng, giữa cái tôi tự vấn và căn cốt tập thể. Chính vì thế, tập thơ không chỉ mang ý nghĩa văn học mà còn là một "bảo tàng tinh thần" lưu giữ và tái tạo bản sắc xứ Nghệ. Như lời tuyên ngôn của cô: "Nếu có kiếp sau/ Ta lại về Xứ Nghệ đầu thai". Câu thơ giản dị mà dứt khoát. Đây không chỉ là lời thề gắn bó với quê hương mà còn là một tuyên ngôn nghệ thuật: thơ ca phải trở thành trầm tích của ký ức, phải bồi đắp bản lĩnh cho hiện tại và gieo mầm cho tương lai.

Điều đọng lại sau Trầm tích thời gian là việc Vân Anh đã nâng "chất Nghệ" vượt khỏi giới hạn của một đặc điểm địa phương để trở thành một hệ sinh thái biểu tượng, nơi hội tụ thiên nhiên, lịch sử, văn hóa và thân phận con người. Ở đó, thơ không chỉ là tiếng nói cá nhân, mà là ký ức địa tầng của cả một cộng đồng, là cách một vùng đất lưu giữ và tái tạo bản sắc qua từng câu chữ. Chính vì thế, Vân Anh không chỉ là một tiếng thơ nữ của xứ Nghệ, mà còn là một gương mặt tiêu biểu của thơ ca bản sắc dân tộc – nơi cốt cách Việt được khẳng định bằng sức chịu đựng, sự hiếu học, lòng nhân nghĩa và khát vọng vươn lên. Bằng việc biến đau thương thành chiêm nghiệm, thử thách thành trầm tích, bà đã minh chứng cho sức sống bền bỉ của văn hóa dân tộc: một bản lĩnh không bao giờ gục ngã, một tâm thế luôn hướng về cộng đồng, và một giá trị nhân văn đủ sức neo giữ hiện tại và thắp sáng tương lai./.

(Tác giả: Hà Vinh Tâm - Trường THPT Cửa Lò, Nghệ An -Hội viên hội VHNT tỉnh Nghệ An. Điện thoại: 0963347526. Email: havinhtamtg@gmail.com, STK:102600196287, ngân hàng Viettinbank )


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét