Chủ Nhật, 21 tháng 9, 2025

MẠCH NGẦM NỖI QUÊ- NỖI MÌNH TRONG THƠ HỒ MẬU THANH- 

(Đọc "LÀNG VÀ NỖI NHỚ")- Bài viết của nhà thơ Vân Anh

 

 Trong tác phẩm thi ca thường hiển thị hai nền hiện thực: Hiện thực đời sống và hiện thực tâm thế của người sáng tạo. Nhà thơ Vũ Quần Phương từng bộc bạch (đại ý): Thơ hay trước hết phản ánh thân phận của tác giả. Quả đúng như vậy, thông qua xúc cảm thẩm mỹ (riêng) mang tính điển hình, nhà thơ nói lên thân phận của cộng đồng (chung). Đến với tập "Làng và Nỗi nhớ" (NXB Nghệ An - 2024) với 70 bài thơ, 168 trang in, ta thấy nhà thơ Hồ Mậu Thanh chủ yếu hướng tới ngoại cảnh "LÀNG" và nội cảnh "NỖI NHỚ" trong mối quan hệ tương thích, hòa quyện. Ở đây, tìm được mạch ngầm tâm thức của anh với bao cung bậc đa thanh, có thể sục sôi hỉ nộ, có thể lặng tờ ái ố. 


I. THƠ HỒ MẬU THANH THAO THIẾT... NỖI LÀNG.

 Thi sĩ Nguyễn Duy viết: "Mỗi con người chập chờn nguồn cội/ Mỗi miền quê trong đi đứng nói cười". Miền quê mà Hồ Mậu Thanh "chập chờn" khởi nguồn thi hứng là ngôi làng nổi tiếng thuộc Quỳnh Lưu (cũ), Nghệ An, nơi anh chào đời và cũng là nơi nữ sĩ đồng tộc Hồ Xuân Hương sinh ra, được vinh danh là danh nhân văn hóa. Và từ miền quê "chôn rau cắt rốn" đó, thi hứng của anh trải rộng ra miền quê xứ Nghệ- miền quê Miền Trung và toàn cõi giải đất hình chữ S, để khẳng định thêm một điều nằm lòng dân ta: Khoảng trời nào cũng là bầu trời quê hương. Làng như một cánh đồng cho anh làm nông phu gieo gặt con chữ. Làng trở thành đối tác trữ tình để anh cùng vui, cùng tự hào ( Quê hương trong tôi, Tết xưa sau cánh cổng làng, Có một miền quê, Nơi ấy ta về, Xuân quê, Cây gạo làng Mơ, Rượu làng Mơ, Kỷ niệm mái trường xưa, Về quê tìm lại tuổi thơ...), để anh đồng cảm, chia sẻ buồn, đau khi anh hóa thân nỗi niềm mưu sinh của nông dân, ngư dân mùa giáp hạt, mùa bão lũ. Lòng nhà thơ se sắt khi hồi tưởng một thời đói khổ, giặc giã, Trung Thu đến thèm ánh trăng hóa bánh ngọt, Tết xưa về hóng nồi bánh chưng kẻo khê mất ăn. Còn bây giờ, anh lại mục sở thị chất quê đã có phần phai màu khi làng mình trong tiến trình đô thị hóa (Tự thú với làng, Tâm sự nhà nông, Viết ở làng chài, Gió Lào xứ Nghệ, Ký ức Miền Trung, Lạc giữa quê nhà, Nhớ Trung thu xưa...).

 Tình yêu quê hương, đất nước là chỉ số EQ căn cốt thiện lương của nhân loại. Người sáng tạo Văn học Nghệ thuật, tùy cơ địa tâm hồn cấp độ khác nhau, nhưng trong tác phẩm đều bộc lộ chỉ số EQ ...kép để họ thông qua tiếng nói tình cảm cá nhân (Tôi) mà có khả năng đại diện cho tiếng nói chung của mọi người (Ta). Trong thi đàn Việt, với chủ đề quê hương, đất nước đã có rất nhiều bài thơ đã lưu giữ trong lòng các thế hệ bạn đọc, tỷ như: Đất nước (Nguyễn Khoa Điềm), "Đất nước" (Nguyễn Đình Thi), "Quê Hương" (Tế Hanh), "Hạt gạo làng ta" (Trần Đăng Khoa), Bài học đầu đời" (Đỗ Trung Quân), "Quê Hương" (Giang Nam)... Với tư cách người làm thơ, Vân Anh đã viết một số bài về chủ đề này, tiêu biểu: Xứ Nghệ, Thức cùng "Hào khí sông Lam", Tổ quốc...

 Một chân dung Làng bước ra từ thơ Hồ Mậu Thanh không mờ ảo nhạt nhòa mà có dáng vóc, hồn cốt của làng chài, làng rau, làng lúa hiện hữu nỗi nhọc nhằn, lam lũ mà không kém phần thơ mộng, lạc quan sinh tồn, để rồi những đứa con như anh sau gần một đời xa quê, anh trở vê "Tự thú với làng" rằng "Làng như bà đỡ tảo tần/ Trở mình nhớ buổi đánh vần tuổi thơ". Anh cũng như bao trai gái đã ra đi từ cái cổng làng Quỳnh, cổng làng quê Nghệ, tự hào mang theo truyền thống lịch sử, truyền thống văn hóa, truyền thống đạo lý làm người của quê mình "Hành trang một mảnh tình làng/ Một làn ví giặm xốn xang lòng người". Và họ đã mang "mảnh tình làng" đến bao nhiêu cổng làng trong miền quê Việt, hay xuất cảnh thông quan đến những cổng làng xứ người, nếm trải đủ mọi cảnh ngộ mới nhận ra cái đích đến của thân phận mình lại từ điểm xuất phát "Đi qua muôn nẻo dại khờ/ Cái cổng làng ấy duyên tơ một đời". Đồng hành những vần thơ của Hồ Mậu Thanh, ta hiểu vì sao "cái cổng làng ấy" lại vấn vít "duyên tơ một đời" trong lòng anh như vây? Bởi bên trong cổng làng là "biên niên sử" của quê hương, của tổ tiên, ông bà, cha mẹ, của tình gia tộc, nghĩa đồng bào, của tuổi hoa niên thiếu cơm rách áo mà ấm no tình thân. Anh chạm bức tranh làng rau Xứ Quỳnh với hình ảnh song thân hiện ra một vẻ đẹp buồn "Mẹ quắt queo, cha cháy sém/ Cùng rau áo bạc tứ bề, hoa nắng thương nhau" (Có một miền quê). Hình ảnh đó đeo bám bao người con li quê sinh sống mà nặng lòng cố hương "...Ấy là miền quê nếu ai đi xa/ Màu rau xanh như thấm vào giấc ngủ" (Có một miền quê).

 Ta dừng lại ngắm kỹ hơn một nét tranh làng trong thi phẩm "Nơi ấy ta về"- Người con về làng bằng phương tiện tâm thức tình mẹ và hồi ức dòng chảy văn hóa dân gian "Nương theo lời ru của mẹ/ Tìm về "muối mặn gừng cay"/ Một thời "trời mưa dưa ế"/ Chiêm bao nhỏ giọt đâm dề". Tác giả đã hòa làm một những giọt mưa thực thể thuở sinh thời mẹ đi bán rau ủ ê lo rau ế với giọt tình thương mẹ của người con "nhỏ dầm dề" trong chiêm bao đêm đời mồ côi hiện tại. Và đây là một thước phim quay chậm cận cảnh, đặc tả làng xưa đi ra từ kí ức "Đồng làng ngả màu giáp hạt/ Sông Mơ nước lợ xuôi dòng". Mùa giáp hạt đói quay quắt, thóc mùa cũ đã cạn, lúa mùa mới đang đòng, nước sông Mơ ngấm mặn làm sao tưới xanh mùa màng? Khi "Viết ở làng chài", người đọc cảm nhận như anh là một ngư dân thực thụ "Nếu vẫn còn biển động/ Làng chài tự dâng sóng/ Làng chài thành bão dông". Mùa biển động, khi thuyền đánh bắt cá không trở về, thì lòng người thân "tự dâng sóng" buồn đau, tang thương trùm lên mỗi gia đình "thành bão dông"...

 Làng trong thơ Hồ Mậu Thanh còn thấp thoáng phút rung động đầu đời dưới gốc "Cây gạo làng Mơ", để rồi "mùa về hoa gạo bơ vơ", kỷ niệm xưa bước vào trang thơ "Cây gạo hóa thành nỗi nhớ/ Khách về gợi mở tứ thơ". Làng là nơi những đứa con ra đi với bao "Dấu chân điểm chỉ khóc cười/ Cổng làng chấm dấu những lời trăm năm" (Thơ Vân Anh). Và trong thơ Hồ Mậu Thanh, Làng còn là "điểm hẹn" trở về khi thỏa khát vọng dâng hiến, đến phút 90 cuộc đời thảnh thơi nghe sóng biển Quỳnh ru giấc viễn du

"Làng thương nơi nằm ấm chỗ/ Du dương sóng vỗ tình quê". 

 

II. THƠ HỒ MẬU THANH ĐAU ĐÁU... NỖI MÌNH.

Mạch thơ "NỖI MÌNH" chiếm tỷ lệ cao trong tập (47/70 bài). Thực ra sự thống kê chỉ mang tính tương đối để tiếp cận tác phẩm chủ yếu nghiêng về chủ đề nào. Bởi "nỗi mình" trong thi ca không bao giờ chỉ là nỗi riêng mang tính cá thể. Nội hàm và ngoại diên "nỗi mình" càng sâu rộng, càng có sức phủ sóng trong lòng độc giả ở cấp độ một giai tầng, một dân tộc, một thời hay của cả nhân loại mọi thời, thì chính là thước đo giá trị đích thực của tác phẩm.

 Mạch ngầm "nỗi mình" trong "Làng và Nỗi nhớ" có hai dòng chảy tưởng như ngược chiều mà lại cùng nơi phát nguyên: Tự vấn hướng vào bản thân & suy ngẫm hướng ra thế sự.

 

1.MẠCH TỰ VẤN: Ta có thể chọn tham khảo các bài: Viết cho mình, Tự vấn, Ngộ ra, Cô đơn, Sợ, Ngủ - Thức, Viết trong cơn say, Chùa nào thiêng nhất, Đọc thơ...

 Không riêng gì nhà thơ, con người luôn có nhu cầu "lục vấn" bản thân. Với nhà thơ thì nhu cầu ấy tăng lên cấp số nhân: Ta là ai? Lẽ sống, khát vọng là gì? Đích đến của cuộc đời ra sao?...Khi chớm tuổi mùa thu, đã qua tuổi hoa, tuổi hồng, tuổi xanh trong trẻo, dại khờ, nồng say khát vọng, ngoảnh lại anh mới đủ năng lượng đối diện bản thân và thi ca đã giúp anh bỏ ngỏ cuộc độc thoại tâm can đeo đẳng kiếp làm người để nhận ra một điều giản dị "Xa rồi cái tuổi hào hoa/ Cộng trừ tổng hiệu thành ra cõi người" (Viết cho mình). Phải chăng, tác giả muốn gửi lời nhắn nhủ làm sao ít đi mảnh đời khi làm toán số học mà đáp số của tổng hiệu đều ra số không tròn trĩnh? Và anh tự trả lời cho mình, cho người bằng một câu hỏi tu từ mang ý nghĩa khẳng định "Còn bao kiếp con tằm/ Chưa cùng người quay tơ nhả kén?" (Tự vấn). Hệ quả câu hỏi này mà độc giả đón nhận bằng một suy luận có lý trong toán học: Một con tằm hay một nong tằm nhả tơ thì không thể dệt nên bất tận những tấm lụa mỹ miều cho đời. Bằng đời thực, tác giả đã làm một con tằm miệt mài nhả kén góp sợi tơ óng vàng dâng quê hương, đất nước.

 Là nhà thơ, anh nếm trải nỗi cô đơn ủ lên men sáng tạo qua nghịch lý đối lập của thời gian vật chất với thời gian tâm lý trong thể thống nhất của nỗi cô đơn mang năng lượng sáng tạo "Cô đơn càng trăm tuổi/ Cô đơn hóa trẻ trung/ Kẻ sĩ càng trăm tuổi/ Lại cô đơn vô cùng" (Xuân quê). 

Anh ngẫm về Người Thơ mà anh cũng tự nguyện chuốc "nghiệp vào thân". Anh tự biết mình đang đứng ở đâu khi thưởng lãm thơ của thi nhân thành danh "Đọc một bài thơ hay/ Ta thấy mình còn thiếu". Chỉ sợ nhất là trái tim thi ca đập nhịp bão hòa, còn nhận ra con người thơ của mình đứng chỗ "còn thiếu", nghĩa là anh đã có hướng đi lên bù đắp cho đủ đầy.

 Anh tự trả lời về nguồn cội của mình, xuất thân là đứa con của người mẹ nghèo xứ Nghệ mà giàu có tình mẫu tử "Mẹ dắt con đi hết ca dao đường mật/ Gia cảnh nhà ta chăn rách mẹ đùm" (Nhớ mẹ bạc đầu con). Anh tự soi vào mình để nhận ra mình còn non dại mà tự hài rao bán cái khờ "Đem khờ san sẻ cho người khôn ngoan" (Ai mua khờ không). Anh lại tự nhận ra mình chưa hoàn hảo trong một hình tượng thơ lạ, đó là thể chất say mà tâm can thi sĩ lại tỉnh "Đêm nay rằm sao trăng tròn một nửa/ Hay rượu cùng ta nhắm nửa vầng rồi" (Viết trong cơn say). Từ đó. tự mình "tính sổ" sòng phẳng với chính mình "Thức nhớ những ân tình/ Có vay mà chưa trả" (Thức- Ngủ). Ý thức nhớ mình còn mắc nợ biểu đạt vẻ đẹp lương tâm và trách nhiệm trong cuộc sống. Anh nhắc mình mà bạn đọc được nhận thêm một lời khuyên về luật 

Vay -Trả của đạo làm người.

 

 2. MẠCH SUY NGẪM THẾ SỰ: 

Đọng ở các bài: Nhiêu khê cõi người, Đừng vong ân với quá khứ, Lạc giữa quê mình, Nghĩ về thi nhân, Nhớ mẹ bạc đầu con, Về quê tìm lại tuổi thơ, Tôi đang mơ, Nghĩ về thi nhân, Cổ tích lứa đôi, Xuân quê, Gió Lào xứ Nghệ, Ký ức Miền Trung, Yêu và Ghét, Đừng tưởng, Lục bát giao duyên, Khúc tháng Bảy, Nhớ trăng thu xưa, Tâm sự nhà nông, Em của ngày xưa cũ, Thơ tình tháng Bảy, Thu rớt...

 Thơ không phải để tả, kể về đời sống mà phải gợi lên trong người đọc những triết lý nhân sinh. Những suy ngẫm về thế sự trong thơ Hồ Mậu Thanh đang hướng tới giá trị đó.

 Nhà thơ Hồ Mậu Thanh cho ra mắt bạn đọc tập "Làng và Nỗi Nhớ" khi đã đi qua 65 mùa xuân. Độ tuổi đã nếm đủ vị đời chua cay lẫn ngọt bùi. Cho nên anh có độ chín của sự chiêm nghiệm và suy tư để không "sốc" với thế thái nhân tình. Anh trầm tĩnh nhìn sự vật, hiện tượng bằng trí tuệ của người từng trải, lại bằng trái tim đa cảm, đa tình. đa mang của người làm thơ mà viết lên những vần thơ đồng cảm, sẻ chia trước muôn mặt đời thường.

 Trước hết, anh suy ngẫm về lòng biết ơn, giá trị nhân văn khởi thủy. Làm con, biết ơn cha mẹ sinh thành dưỡng dục "Một đời mẹ lay võng đay/ Cho con giấc thắm đêm ngày" (Vu lan nhớ mẹ). Mẹ tất bật tảo tần thức một đời "lay võng đay" với niềm vui cho con "giấc thắm đêm ngày" - một "giấc thắm" thực hiện ước mơ & khát vọng một ngày con khôn lớn thành tài. Chỉ nghĩ đến đấng sinh thành ban cho mình vô giá kiếp làm người, qua chiến tranh, qua tai ương, tật bệnh vẫn còn sức lực thể chất và tinh thần để dâng hiến là lòng càng biết ơn mà dặn lòng, mình phải tiếp tục tu tâm dưỡng tính "Ngước lên cao bồ đề che rộng tán/ Chẳng xa đâu Phật ngự tự lòng mình" (May còn được sống). Anh như muốn truyền cảm đức tin cho mọi người: Sống thiện lương là tâm Phật. Và khi ngộ giác ra rằng "Hãy về ngôi chùa thiêng/ Ngự trong lòng ta đó" (Chùa nào thiêng nhất), mỗi người sẽ hiện hữu một Niết Bàn nơi Cõi Thế. 

 Làm công dân biết yêu tổ quốc, biết ơn các bậc tiền nhân, các thế hệ ông cha đã chiến đấu hy sinh cho hôm nay ta sống tự do trong hòa bình "Hy sinh nào cũng nghĩa cả nước non/...Đời héo hon cho vuông tròn hiện tại/ Ký ức giúp ta viết trang sử đường dài" (Đừng vong ân với quá khứ). Anh như thầm nhắc mình và nhắc người nếu ai lãng quên quá khứ oai hùng & bi thương của dân tộc là mắc tội với dân lành. Trước phần mộ các liệt sỹ Truông Bồn rất nhiều hoa trinh nữ, loài hoa biểu tượng cho vẻ đẹp e ấp trong trắng trinh nữ, tác giả gợi một tứ thơ lòng biết ơn rất cảm động về sự hy sinh của những cô gái tuổi mười tám đôi mươi, các cô đã hiển thánh trong lòng dân: "Mang thánh Truông Bồn đi trú đông/ Cho hoa trinh nữ mãi trắng hồng" (Trinh nữ Truông Bồn).

 Thơ Hồ Mậu Thanh có những suy ngẫm sự đời đã làm bạn đọc khi nở nụ hoa cười, khi thì cay cay khóe mắt.

 Anh say cùng vẻ đẹp của cuộc tình lệch pha giữa cô gái Việt nghèo, tàn tật với chàng trai ngoại quốc điển trai, có tài, giàu có như một "Cổ tích lứa đôi" thời hiện đại. Một chuyện tình độc lạ biến điều không thể thành có thể, khi tình yêu gắn kết "hai mảnh ghép một lành, một vỡ", khi tình yêu biết bỏ lại sau lưng cái oái oăm "anh bồi, em lở" để truyền năng lượng cho nhau "Hãy cùng nhau xây nhịp cầu kinh thánh/ Cố gắng lên ta sẽ tới thiên đường". Thiên đường không bước ra từ huyền thoại mà có thật giữa cuộc sống lứa đôi ở làng quê Việt, thế kỷ 21. 

 Tâm hồn của nhà thơ nhạy cảm từ một phút giây thiêng vũ trụ giao mùa "Đông gầy, xuân nhẹ tênh sang/ Vỉa hè rau đắng tình tang vẫn chờ" (Xuân quê). Anh thổi hồn vào thiên nhiên, dáng già nua, cạn sức sống của "đông gầy" theo quy luật đào thải phải nhường đường cho một dáng vóc cường tráng nhanh nhẹn "xuân nhẹ tênh sang", mở ra một mùa xanh sự sống sinh sôi trải tràn. Hay khi cảm tác cảnh thu tàn, mà nhà thơ gọi bằng một cái tên thương cảm "Thu rớt": "Gói nỗi buồn đợi nắng phơi/ Trời không lộ sáng mưa rơi ướt nhòe". Ướt buồn càng cất dấu không "lộ sáng", không tỏ được cùng ai thì càng "ướt nhòe " chìm đắm. Khi anh viết nỗi nhớ rất ấn tượng "Hỏi có men gì cô cao nhớ/ Đặc quánh cuộc tình như giấc mơ" (Thơ tình tháng Bảy). Hình ảnh nỗi nhớ cô đặc thành cao tác động vào thị giác rất gợi. Đây là những hình ảnh thơ chiết ra từ một tâm hồn đẹp, biết nâng niu không chỉ niềm vui mà còn biết trân trọng cả nỗi buồn, nỗi nhớ, còn vui, còn buồn, còn thương nhớ là trái tim chưa chai sạn, là còn khao khát yêu cuộc sống. Nỗi buồn, nỗi nhớ ở đây đâu chỉ là buồn nhớ trong tình yêu. Rất có thể nỗi buồn nhớ về một số giá trị đẹp của cuộc sống đã bị phai mờ xuống cấp.

 Trong tập thơ, khi suy ngẫm về nhân tình thế thái, tâm tư của tác giả như chùng xuống. Chùng xuống của nỗi đau đáu "một giận, mười buồn". Đầu tiên, người con Hồ Mậu Thanh về quê bước hẫng hụt lạ lẫm giữa làng mình "Tôi về ở giữa quê tôi/ Bỗng dưng ngơ ngác như đời mất quê". Nhà thơ nói hộ bao người con về cảm giác "mất quê". Vì sao ra nông nỗi này? Bởi "hương đồng gió nội"* không chỉ "bay đi ít nhiều"* (ý thơ Nguyễn Bính) mà là một sự "lột xác", từ quê hóa phố "Thinh không giữa chốn đông người/ Ta như kẻ lạc về nơi phỗ phường/ Đổi thay có phép nhiệm màu/ Giữa quê mà ngỡ như lâu chưa về" (Lạc giữa quê mình). Một chân dung tâm trạng buồn khi làng quê bị phai màu do mất cân đối giữa giữ gìn bản sắc làng với tiến trình đô thị hóa. 

Thơ Hồ Mậu Thanh có một dòng chảy kí ức rất sâu đậm. Thực ra là tác giả "soi" hiện tại vào kí ức để giải mã nỗi niềm mình. Một kí ức "Gió Lào xứ Nghệ" xoáy vào tâm tư người con ở xa một câu hỏi tình quê có khô cạn trong lòng "Sông Lam nước cạn dần bao thương nhớ/ Ba cổng thành khép mở gió Lào khô?" 

Rồi mở rộng ra có nhớ miền quê Miền Trung với những kí ức cháy rực ngọn lửa khốc liệt của chiến tranh, ngọn lửa tàn phá của cháy rừng, ngọn lửa rừng rực không bao giờ tăt của lòng yêu nước của quân dân ta "Một Miền Trung nhìn đâu cũng lửa/ Lửa chiến tranh, lửa núi, lửa lòng". Và thơ anh rung chuông cảnh báo con người đừng bao giở xóa kí ức, bởi kí ức giúp ta viết trang sử đường dài/ Ta lớn lên bắt đầu từ ký ức". Kí ức là lịch sử của bản thân, của dân tộc. Khi đã mất trắng kí ức là con người sống nhạt, chỉ là một sự tồn tại như miếng trầu không vôi, không màu thắm của lý tưởng sống, nhạt nhòa không quá khứ, chẳng tương lai. Và một nỗi sợ ập xuống cho nhân loại nếu kiểu người như vậy được nhân bản "Sợ miếng trầu thiếu vôi/ Nhai thì không thắm, nuốt thời trào ra" (Sợ). Nỗi sợ ấy len cả vào giấc ngủ, nhà thơ ám ảnh nỗi mình phải sống sao "điểm chỉ" bản ngã vào cuộc sống, nếu cứ "Câm nín mãi, tôi cũng thành đá thật/ Thành phiến trơ lỳ ghép bục thế nhân đi" (Tôi). Nhưng khi đứng trước cuộc thế, anh nhận ra một số kẻ lừa trên dối dưới, bằng mọi thủ đoạn để đoạt danh vọng mà vinh thân phì gia, thì anh so sánh tính hữu dụng của viên đá lát đường với cái vô dụng của bia đá đặt sai chỗ "Thà làm đá lát chân đi/ Còn hơn bia đá chỉ vì hám danh" (Nhiêu khê cõi người). 

Cuối cùng một suy ngẫm thế sự tưởng như là điều vui mà ẩn chứa nỗi lo "Thuở xưa chưa có đường/ Người đi trong ngơ ngác/ Bây giờ thật nhiều đường/ Bước chân xa sợ lạc" (Đừng tưởng). Đây là một tứ thơ mang tính cảnh báo. Bởi tiến trình đất nước phát triển, không dừng lại nỗi lo...buồn lạc giữa quê nhà hóa phố mà là nỗi lo... sợ khi dân ta chưa chuẩn bị đủ hành trang thì "bước chân xa sợ lạc" trước ngả ba, ngả bảy của nhiều con đường hội nhập ra thế giới 

 

 Vì yêu làng, yêu người, muốn nói hết thảy mọi thứ anh mắt thấy tai nghe và dốc hết tâm can suy ngẫm thế sự nên trong tập thơ hơi dàn trải đề tài, cũng như nhiều chỗ chưa kịp nấu cao chữ. Nhưng thành công nổi trội là tác giả đã biết cách tạo ý, lập tứ, một số cách dùng ngôn từ, hình ảnh biểu đạt, cũng như cách đặt tiêu đề tác phẩm, Đến với "Làng và Nỗi nhớ", ta không chỉ tiếp cận thân phận của một Hồ Mậu Thanh mà còn tiếp cận với thân phận Đất và Người quê anh và đang vươn tới rộng dài quê Việt. Kỳ vọng, với hồn thơ chạm độ sung sức, bạn đọc tiếp tục đón đọc những thi phẩm mới giàu giá trị nội dung và thẩm mỹ của nhà thơ ./.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét