Thứ Ba, 16 tháng 10, 2012

Chân dung một nhà giáo ưu tú


Hưởng ứng cuộc vận động sáng tác, quảng bá tác phẩm Văn học Nghệ thuật và Báo chí về đề tài "Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Mình"

Ghi chép của VÂN ANH

Tôi tìm đến một ngôi nhà nhỏ mát mẻ, yên tĩnh nép mình dưới chân núi Quyết -  nhà của nhà giáo ưu tú, phó giáo sư, tiến sĩ Nguyễn Đình Noãn.


Thầy giáo Noãn trông trẻ hơn rất nhiều so với tuổi của mình. Tôi ngạc nhiên tưởng như chẳng có gì gặp gỡ giữa một thầy giáo hồn hậu, cởi mở, chân tình, giản dị trước mắt tôi với một vị phó giáo sư, phó tiến sĩ (nay là tiến sĩ)  từng du học ở Ba Lan, thông thạo ba ngoại ngữ, có nhiều công trình khoa học tầm cỡ và là một trong những chuyên gia đầu ngành về thiên văn vũ trụ của Việt Nam, từng đứng trên giảng đường đại học Tebessa ở Algeri giảng bài bằng tiếng Pháp. Nhưng điều đó được giải mã khi tôi được biết ông nội, ông ngoại của thầy cũng là những thầy giáo, thầy thuốc của làng quê nổi tiếng Xuân Sơn - Đô Lương, Quỳnh Đôi- Quỳnh Lưu. Thân sinh của thầy, từng là một nhà nho thất thế về vui thú điền viên. Thân mẫu vốn làm nghề lọc tơ dệt lụa, lại ham văn chương, có thể đọc từ đầu đến cuối nhiều tác phẩm văn học cổ điển như Truyện Kiều, Chinh Phụ ngâm,... Tuổi hoa niên của cậu bé Noãn như được vỗ về trong vành nôi của học vấn và khí tiết thanh cao của những nhà nho dòng dõi danh nhân Nguyễn Xí.

Vượt lên cái nghèo của gia đình và quê hương, cậu học trò mang sẵn dòng máu hiếu học của dòng họ, đã thi đỗ vào cấp 3 Huỳnh Thúc Kháng rồi theo học trường Sư phạm Liên khu IV. Năm 1954, anh là một trong bốn người đậu loại giỏi của khóa học sư phạm. Anh là một trong những thành viên đầu tiên tham gia Hội nghiên cứu chủ nghĩa Mác do nhà lý luận mác xít Hải Triều tổ chức, được học viên bầu vào Ban thường vụ Đoàn trường. Với văn bằng loại giỏi và sớm được tập thể tín nhiệm, chàng thanh niên xứ Nghệ 20 tuổi vừa tốt nghiệp ra trường được bổ nhiệm quyền hiệu trưởng Trường phổ thông trung học cơ sở huyện Hậu Lộc, tỉnh Thanh Hóa (1954-1955). Quá trẻ về tuổi đời và tuổi nghề, lại được giao trọng trách nặng nề, hoàn cảnh đất nước vừa đi qua chiến tranh, thầy đã phấn đấu, học tập kinh nghiệm, tranh thủ, động viên sự đóng góp tài năng trí lực của tập thể giáo viên, đặc biệt là những thầy giáo vốn xuất thân là những trí thức cũ.  Tháng 9/1959 thầy được chọn đi học ở Đại học Sư phạm Hà Nội ngành Toán-Lý, đến tháng 9/1961 trở thành cán bộ giảng dạy của tổ Vật lý Trường Đại học sư phạm Hà Nội và được kết nạp vào Đảng Cộng sản Việt Nam. Nhìn vào “niên biểu” sáu năm ra trường của thầy, tôi tò mò “phỏng vấn”, thầy cười hiền và nói: “Trong khi mọi người bận đánh giặc, mình may mắn được học hành chút đỉnh, phải cố gắng vươn lên để “trả nợ” cho cả một thế hệ con em đang đói khát học vấn”.

Ngay sau vụ 5/8/1964, Mỹ đánh phá ra miền Bắc, thầy là chính trị phó của đơn vị tự vệ nhà trường. Mùa hè 1965, thầy trò trường Vinh cơm đùm, cơm gói đi sơ tán, thầy xung phong “bám trụ” tại thành phố, là thành viên ban bảo vệ cơ sở của trường. Từ 1970-1990, thầy đắc cử ba khóa Chủ tịch Công đoàn, với ba hiệu trưởng là giáo sư Nguyễn Thúc Hào, phó giáo sư Lê Hoài Nam và phó giáo sư Phan Bá Nhẫn. Thầy còn là chấp hành Công đoàn Giáo dục Việt Nam khóa 6. Thầy cho biết: làm chủ tịch Công đoàn thời bao cấp gay cấn nhất là vấn đề phân phối hàng hóa. Chính đồng chí Chủ tịch không bao giờ dám đăng ký một món hàng gì,  kể cả một cái lưỡi dao lam. Thầy kể: năm 1973 Trường trở về Vinh sống trên bãi cát với các cán nhà tranh, tre, nứa, mét. Thầy động viên đoàn viên  công đoàn, với khẩu hiệu “Tất cả vì học sinh thân yêu”, đóng góp xây dựng một nhà ngói cấp bốn dài mười bốn gian làm nhà ăn cho sinh viên. Thầy lại còn tổ chức một đội kịch công diễn vở: “Con cáo và chùm nho”, mời nghệ sĩ nhân dân Nguyễn Đình Nghi đạo diễn. Công đoàn do thầy chủ xướng đứng ra tổ chức hội thảo phương pháp giảng dạy và ra các kỉ yếu, các báo cáo. Mọi người còn nói thầy không chỉ là một chủ tịch công đoàn mẫu mực mà còn là một “ông bố đảm đang”. Trong những năm tháng đất nước ta lương thực ngặt nghèo (từ năm 1971-1990) chỉ với đồng lương và đồng nhuận bút viết sách, viết báo của thầy đã  nuôi bốn người con ăn học, nay họ đều đã thành đạt, có học vị thạc sĩ, tiến sĩ.

Năm 1965-1969 ông được đi nghiên cứu sinh ở Ba Lan và được Viện hàn lâm khoa học Ba Lan cấp bằng tiến sĩ ngành Thiên văn vũ trụ. Có thể nói ông là một trong những người Việt Nam ít ỏi đầu tiên được cấp bằng tiến sĩ về ngành học này. Từ năm 1991-1994, ông  được Bộ Đại học Algeri phong giáo sư bậc 8. Nhìn vào thư mục về giáo trình và sách đã in của ông, chúng ta hết sức khâm phục về sức nghĩ, sức viết của ông. Với 32 đầu sách và tài liệu chuyên ngành vật lý và thiên văn (trong đó có 11 cuốn sách phổ thông, 7 cuốn sách đại học, 8 tài liệu chuyên ngành và 6 cuốn sách dịch từ tiếng Nga, Pháp, Ba Lan). Theo ông, trong 32 đầu sách của 55 năm hoạt động nghiên cứu khoa học, ông tâm đắc nhất là quyển “400 lịch sao Xinhghe”. ông tâm sự: Thiên văn thế giới đã phát triển từ lâu. Còn riêng Việt Nam vẫn chưa có gì đáng kể. ở Liên Xô (cũ) và Trung Quốc có những công trình nghiên cứu vĩ độ cao, còn các nước xích đạo, các nước thuộc diện kém phát triển (trong đó có Việt Nam) cần có một công trình đo đạc vĩ độ thấp. Nung nấu bởi ý tưởng đó nên trong bốn năm nghiên cứu ở Ba Lan, ông đã dành ba năm hoàn thành luận án tiến sĩ, còn một năm làm một số vấn đề khoa học phục vụ cho đất nước về lâu dài. Quyển lịch sao của ông (?)  ra đời năm  1969. Trong vòng 40 năm nay, đất nước ta đã sử dụng công trình này trong trắc địa ứng dụng. Trong cuộc hội thảo thiên văn toàn quốc lần thứ 2 (1997), bài viết “Thiên văn và chủ quyền đất nước” của ông đã có tiếng vang lớn. Công trình này không thuần túy là một công trình khoa học mà còn bộc lộ lòng yêu nước và tự hào dân tộc. Đóng góp to lớn của công trình khoa học của ông là đo đạc thiên văn, lập bản đồ, xác định tọa độ các đảo trên biển, các điểm biên giới.

Không thể xác định công trình khoa học này là mấy trăm tỷ đồng theo giá trị vật chất. Quả đúng như vậy. Đây là trích đoạn bức thư của Đoàn thông lục thiên văn thuộc Cục đo đạc và bản đồ Nhà nước do Đoàn trưởng Đào Thi ký ngày 6/6/1979: “Đặc biệt đồng chí Nguyễn Đình Noãn đã cung cấp cho chúng tôi 400 bản lịch sao do đồng chí biên soạn để phục vụ cho đo đạc thiên văn ở vĩ độ thấp. Đây là một tài liệu có giá trị thực tiễn, đáp ứng được yêu cầu sản xuất và đã tạo điều kiện cho chúng tôi hoàn thành tốt nhiệm vụ”. Nhờ những cống hiến khoa học đó mà ông trở thành một trong chín thành viên của Hội đồng khoa học liên ngành nghiên cứu xét duyệt lịch Nhà nước, là thành viên của Hội đồng Vật lý và kỹ thuật công nghiệp, là Trưởng tiểu ban Thiên văn học của nước ta.

Cuộc đời 55 năm dạy học và nghiên cứu khoa học của thầy có rất nhiều học trò và cộng sự xuất sắc.

Trong các học trò của ông mà ông kể, tôi đặc biệt ấn tượng một người. Anh vốn là sinh viên khoa Lý Đại học sư phạm Vinh. Năm 1970- thầy đã chọn anh - một sinh viên xuất sắc nhất ở lại khoa để đào tạo thành cán bộ giảng dạy thiên văn. Sau 10 năm, chuẩn bị kế nghiệp thầy, người học trò đó gặp khó khăn phải về quê nuôi bố già nên xin về dạy cấp 3 trường huyện. Thầy Noãn đã kiên trì thuyết phục gia đình để anh trở lại giảng đường đại học, để rồi với sự giúp đỡ tận tình của thầy, anh sinh viên xuất sắc năm xưa đã bảo vệ thành công luận án phó tiến sĩ về Thiên văn. Hiện nay, anh là người Việt Nam đầu tiên được gia nhập Hội thiên văn quốc tế. Người học trò xuất sắc ấy của thầy chính là phó giáo sư, tiến sĩ Nguyễn Đình Huân, nguyên là hiệu trưởng Trường Đại học Vinh. Sau đây là những cảm nhận sâu sắc của anh về thầy giáo cũ của mình:
“Nhắc đến thầy giáo Nguyễn Đình Noãn là nhắc đến một cuộc đời tận tụy với học trò, tâm huyết với nghề nghiệp. Mặc dù là một nhà khoa học có nhiều cống hiến nhưng thầy rất quần chúng, luôn luôn phổ biến tri thức khoa học với cộng đồng dân cư. Thầy có một gia đình mẫu mực mà thầy là một tấm gương sáng. Chân tình, cởi mở với bạn bè, luôn muốn giúp đỡ mọi người cũng là nét nổi bật trong tính cách của thầy. Và một bí quyết thành công trong các công trình nghiên cứu của thầy là có quan hệ tốt đẹp với các nhà khoa học trong và ngoài nước”.

Như vậy, trên mảnh đất cát bỏng, gió Lào, đã có hai trong ba nhà khoa học thiên văn của đất nước. Đây là lý do chính mà nhà chiếu hình vũ trụ đầu tiên ở Việt Nam được đặt tại Vinh, toàn bộ máy móc do chính phủ Nhật tài trợ trị giá 50 triệu yên, tương đương 5 tỷ đồng Việt Nam. Người dân Nghệ An hôm nay và mai sau ghi nhận đóng góp to lớn này của hai vị phó Giáo sư, tiến sỹ là Nguyễn Đình Noãn và Nguyễn Đình Huân.

Nhà giáo ưu tú Nguyễn Đình Noãn sinh ngày 1/10/1934, 76 tuổi đời, 55 tuổi nghề, 46 năm tuổi đảng, ông đã  giữ nhiều trọng trách, 11 lần dạt danh hiệu giáo viên giỏi và chiến sĩ thi đua, có 5 bằng khen của Bộ Giáo dục-Đào tạo, bằng khen của Công  đoàn giáo dục Việt Nam, 5 bằng khen của UBND tỉnh Nghệ An, huy chương Vì sự nghiệp giáo dục, huân chương kháng chiến chống Mỹ hạng nhất,... Nghỉ hưu 13 năm, ông vẫn tiếp tục ra 8 đầu sách (trong đó có bộ “Từ điển giáo khoa vật lý” (đồng tác giả với 7 nhà khoa học danh tiếng trong nước, được tặng giải bạc sách hay 2008), tham gia viết báo (khoảng 200 bài); vẫn đảm nhận công việc quan trọng như: thành viên Hội đồng duyệt sách vật lý theo chương trình thay sách, Hội đồng bộ môn vật lý; hội đồng bồi dưỡng đội tuyển Vật lý của Việt Nam dự thi Olimpic châu á và Quốc tế, năm 2008, thầy được mời bồi dưỡng, ra đề, chấm thi kì thi vật lý quốc tế lần thứ 39 tổ chức tại Việt Nam; tham gia dạy các chuyên đề vật lý thiên văn cho học viên cao học(Đại học Vinh) tham gia  phản biện ở Hội đồng bảo vệ luận án thạc sĩ (Viện Vật lý- KT Đại học Bách khoa Hà Nội). Đặc biệt trong 9 năm (2000-2009) ông lại là thầy giáo “đặc cách” được Sở Giáo dục-Đào tạo Nghệ An mời giảng dạy môn vật lý bằng tiếng Pháp cho Trường chuyên THPT Phan Bội Châu...

Thầy Noãn khiêm nhường nói: “Chẳng có bí quyết gì cả. Đơn giản là mình đã quen làm việc, giờ mà nghỉ thì thấy trong người thiêu thiếu thế nào ấy...”.

Ông dốc bầu tâm sự với thế hệ trẻ hôm nay rằng: Sở dĩ ông có vài đóng góp cho khoa học, bởi từ những năm 60 của thế kỷ trước ông đã có trong tay ba ngoại ngữ: Pháp, Ba Lan, Nga. Ngoại ngữ hôm nay như “đôi cánh thiên thần” giúp ta bay đến mọi chân trời mới lạ. 

Tôi muốn khép lại bài viết về một nhà giáo, nhà khoa học miệt mài lao động sáng tạo, một con người đạo cao đức trọng - nhà giáo ưu tú Nguyễn Đình Noãn, bằng một câu: Quả là, “gừng càng già, càng cay”!                                                                                                                                                                                                                                                                   

1 nhận xét:

  1. Vinh quang một con người, một cuộc đời. Vinh quang người giáo viên nhân dân. Vinh quang nhà khoa học vật lý thiên văn hàng đầu Việt Nam.
    Cám ơn bài viết của nhà giáo Vân Anh.

    Trả lờiXóa