Thứ Tư, 25 tháng 9, 2024






"HỮU CẢM" - BỨC THÔNG ĐIỆP CHỐNG CHIẾN TRANH, YÊU HÒA BÌNH - Bài viết của nhà thơ Vân Anh


A. BÀI THƠ  "HỮU CẢM" - Nguyễn Bỉnh Khiêm 
Nghịch tặc xương cuồng phạm đế kinh,
Chủ ưu thần nhục trọng thương tình.
Hề tô cửu uất thương sinh vọng,
Điếu phạt thùy hưng thời vũ binh.
Tứ hải y quy dân đới cựu,
Cửu thiên chiêu yết nhật trùng minh.
Cổ lai, nhân giả tư vô địch
Hà tất khu khu sự chiến tranh.
   
B. BÀI BÌNH của nhà thơ Vân Anh 

Nguyễn Bỉnh Khiêm được coi như một cây đại thụ của văn học thế kỷ XVI. Ông là một người uyên bác, tài cao, học rộng. đỗ đạt cao (đậu Trạng nguyên triều Mạc). Ông từng làm "quân sư" cho nhiều bậc đế vương. Từ trước đến nay, nói đến ông, người ta thường nghĩ đến một ẩn sĩ "lánh đục về trong". Ta nên hiểu rằng ẩn dật đối với ông là phương tiện chứ không phải mục đích cuối cùng. Hành trình của đời ông cho ta đi đến một nhận định: ông thường dấn mình ở 2 phương diện: lập ngôn và hành trạng. Ngoài 40 tuổi đi thi đỗ cao, làm quan 8 năm. Sau đó, ông dâng sớ đòi chém 18 lộng thần, hiển nhiên là không có kết quả. Ông rút lui về ở ẩn Bạch Vân am. Ông "nhàn thân" chứ đâu có "nhàn tâm". Trong ông vẫn đau đáu một nỗi niềm tìm cho mình và cho dân một đấng minh quân - Bầy tôi "trung" thường muốn phò "minh chủ", nhưng vô vọng. Ông bế tắc. Bởi không có biểu trưng cho niềm hy vọng ấy nên ông không nói hết, nói thẳng trong sự lập ngôn. Ở con người của Nguyễn Bỉnh Khiêm là hội tụ của sự đa tài. Ông vừa có cái mẫn cảm nhạy bén của một tâm hồn thi sĩ, vừa có cái ẩn ức, hoài nghi của một tầm nhìn triết học của một bậc triết gia. Cho nên, hiểu văn chương của ông là ta phải có trong tay những "thông số" về triết lý nhân sinh của bản thân ông cũng như những bậc hiền nhân quân tử cùng thời. Bởi thế, ta sẽ có cách nhìn bao quát về thơ của Nguyễn Bỉnh Khiêm vừa có chất hồn hậu, chân chất tình đời, vừa có sự am tường sâu sắc của một kẻ sĩ trải đời để tạo ra chất minh triết trong thị tứ. 


Bài "Hữu cảm" được trích từ tập thơ chữ Hán "Bạch Vân am thi". Theo sự phán đoán của nhiều học giả, B

bài thơ này có khả năng viết vào cuối năm Tân Hợi (1551) thời Mạc Tuyên Tông (Phúc Nguyên) khi quân Trịnh mượn cớ "phù Lê diệt Mạc" tiến đánh kinh đô nhà Mạc, vua Mạc phải chạy ra Hải Dương. Bấy giờ Nguyễn Bỉnh Khiêm vẫn còn là trọng thần nhà Mạc, tuy ở quê nhưng vẫn được vua Mạc trọng vọng như đương triều. "Chủ ưu, thần nhục" trong bài thơ là Trạng Trình muốn ám chỉ vua tôi nhà Mạc, một triều đại ông ra ứng thí làm quan nhiều năm. Và theo đánh giá của những nhà lịch sử am tường thì đó là triều đại tiến bộ hơn nhà Lê. 

Bài thơ "Hữu cảm" nằm trong mạch kết cấu chương trình của văn học trung đại, theo thể thất ngôn bát cú Đường luật có chung một thi pháp sáng tạo là "tả cảnh ngụ tình", "nhân cảnh sinh tình" hoặc "vịnh vật tả người" từ thơ Nguyễn Trãi, Lê Thánh Tông, đến Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, Bà Huyện Thanh quan, Nguyễn Công Trứ, Nguyễn Đình Chiểu, Nguyễn Khuyến, Tú Xương. Việc tìm hiểu một tác giả, một tác phẩm phải đặt trong trường thi pháp của một giai đoạn văn học. Bên cạnh nền hiện thực xã hội phải hiểu đầy đủ nền hiện thực tâm thế của người nghệ sĩ mới thẩm nhận đầy đủ giá trị nghệ thuật và nội dung tư tưởng của tác phẩm. Trường hợp bài thơ này lại là một bài thơ chữ Hán, tốt nhất là trả về nguyên bản để tìm hiểu cho thấu đáo. Vì thơ là nghệ thuật của ngôn từ, nếu tước bỏ vỏ ngôn ngữ là tước đi vẻ đẹp thẩm mĩ của một văn bản nghệ thuật. Chẳng hạn như trong bài "Phản chiêu hồn" của Nguyễn Du, nếu hiểu theo bản dịch thì làm sao ta lấy ra cám hứng nhân đạo trào dáng trong thi tứ:

"Người đời sau ai ai cũng là Thương Quan 

Đất rộng đâu đâu cũng là sông Mịch La 

"Hậu thế nhân nhận giải Thương Quan 

Đại địa xứ xứ giai Mịch La" 

Nguyên bản có dùng 2 điệp từ "nhân nhân" và "xứ xứ" để nhấn thêm sự thất vọng của tác giả trước thời cuộc. Hay trong bài "Giải đi sớm" của Bác Hồ, nếu tước bỏ nguyên bản ta sẽ không cảm nhận đầy đủ từ thể hiện ngang hào hứng của người tù cách mạng: 

"Chinh nhân dĩ tại chỉnh đồ thượng 

Nghênh diễn thu phong trận trận hàn 

Người tù ở đây "ngẩng mặt" lên đón nhận những trận gió lạnh ào ào thổi tới - một hình ảnh ví ngầm gian khổ thử thách mà người tù nếm trải. 

Nguyễn Bỉnh Khiêm đặt tiêu đề là "Hữu cảm" - nghĩa là có cảm xúc. Đây là nằm trong mạch đề tài như là "Thuật hứng", "Ngôn chí", "Tức sự" trong thi ca trung đại. Nhiều khi để tài chỉ là cái cớ để nhà thơ chở tải chủ đề tư tưởng lớn lao của mình. 

  Ông đã mượn việc quân Trịnh tiến đánh kinh đô vua Mac để bộc lộ cảm xúc, suy nghĩ của mình về chiến tranh phong kiến, vấn đề mà trước và cùng thời với ông chưa ai đưa ra một cách nhìn nhận mới mẻ và tiến bộ như thế. 

   Ngay từ tứ thơ mở đầu của hai câu đề ông đã bày tỏ cảm xúc và suy ngẫm về tình thế "ngàn cân treo sợi tóc" của vận mệnh đất nước:

"Nghịch tặc xương cuồng phạm đế kinh 

Chủ ưu thần nhục trọng thương tình" 

Tại thời điểm lịch sử đó, vua nhà Mạc trị vì đất nước là nơi hướng vọng của muôn dân. Bọn "nghịch tặc" (là giặc dữ) mà ông đề cập ở đây không giống bọn "nghịch lỗ" trong bài "Nam quốc Sơn hà" của Lý Thường Kiệt, hay quân "cuồng Minh" trong "Bình Ngô đại cáo" của Nguyễn Trãi mà là bọn nội loạn gây ra ảnh "nồi da nấu thịt". Việc quân Trịnh hành động "xương :cuồng" tức là điên cuồng, ngang ngược đánh phá kinh đô nhà Mạc là biểu hiện cao nhất của sự đảo lộn kỷ cương phép nước. "Đế kinh" thủ đô của một vương quốc - nơi vua trị vì muôn dân, biểu tượng cho xã tắc non sông bị xâm lấn. Cảm xúc của thi sĩ là cảm xúc của một tấm lòng vĩ mô, một nhãn quan xuyên lịch sử. ông đã đặt "chúa và tôi" (chủ ưu thần nhục) vào trong ống kính vạn hoa - mà tác giả đứng từ một tầm bao quát để thấy cả "vua" và "tôi" như những sinh linh tội nghiệp do chiến tranh. Câu thơ bộc lộ thái độ của tác giả về chiến tranh như là người trong cuộc lại như là người ngoài cuộc. Đó là cảm nhận "trọng thương tình" - (thương xót một cách sâu nặng, thực lòng), lòng thương xót ở đây dành cho hết thảy cả kẻ rường cột của xã tắc đến những dân lành vô tội. Kẻ cầm quyền ở đây chỉ (chủ ưu) lo lắng sợ hãi một cách bất lực. Trên thực tế vua Mạc chạy dài ra Hải Dương lánh nạn. Câu thơ có khả năng dựng lại một bi kịch lịch sử - ông vừa gay gắt phê phán kẻ gây chiến dẫn đến cảnh "người ta làm hại dân ta", vừa trách cứ kẻ cầm quyền thời bình tự nhận mình là "thiên tử" (con trời) "phụng thiên hành hóa" (thay trời hành đạo) mà khi tai họa giáng xuống "dân đen con đỏ" thì hèn nhát bỏ chạy. Với thái độ này, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã đặt tất cả lên bàn cân lịch sử, để muôn thế hệ bạn đọc hiểu ra: chiến tranh do một nhóm người khởi xướng để tranh giành quyền lợi là như thế đó, 

  Từ hiện thực đất nước loạn li do các tập đoàn phong kiến tranh giành ngôi báu, ông đã bộc lộ thái độ chán ghét, lên án chiến tranh vì chiến tranh làm cho dân tình khốn đốn. Bốn câu thực, luận của bài thơ là ông hướng lòng mình vào số phận của số đông nhân dân. Ông đã nhận thức một sự thực lịch sử đau xót. Số đông dân chúng chẳng có lợi lộc gì sau chiến tranh mặc cho nhà cầm quyền đôi bên vẫn thoa vẽ cho hành động phát động chiến tranh. Cái đến với họ là sự mất mát, đau thương. Chiến tranh càng kéo dài thì càng chất cao núi xương, chảy dài sông máu của họ. Hai câu thực (câu 3, 4) của bài thơ bộc lộ khát khao ẩn chứa bi kịch một thời. Tạo thế dồn nén của tình hình "Hề tô" (rút ngắn của câu cổ ngữ "Hề ngã hậu, hậu lai kì tô" (tức là chờ vua ta đến, vua ta đến sẽ cứu sống ta). 

"Hề tô cửu uất thương sinh vọng 

Điếu phạt thủy hưng thời vũ binh" 

Khát vọng có một "đấng minh quân" đến cứu sự sống của dân lành "thương sinh vọng" uất kết lại thành khối trong lòng muôn dân. Nỗi mong chờ đội quân chính nghĩa như một cánh đồng khô nỏ chờ mưa, như một trận mưa đúng lúc, kịp thời (thời vũ binh). Câu thơ bảy chữ như chứa chất sự oi nồng, ngột ngạt, như một tiếng sấm báo hiệu cơn dông - câu thơ còn chất chứa bi kịch một thời - thời của Nguyễn Bỉnh Khiêm là thế kỉ vắng bóng anh hùng. Ông là một hiện triết, nhưng ông lại một thi sĩ, cái "tâm"lấn cái "trí" cho nên ông vẫn vẽ ra trong thơ một viễn cảnh ngời ngợi: 

"Tứ hải y quy dân đới cựu 

Cửu thiên chiêu yết nhật trùng minh" 

Viễn cảnh mà Nguyễn Trãi vẽ ra trong "Bình Ngô đại cáo" là bức tranh từ tối đến sáng còn trong "Hữu cảm" cảnh hòa bình "nhật trùng minh" (mặt trời sáng rực rỡ như xưa, nhân dân bốn biển vui sướng tụ về) chỉ nằm trong "miền mơ" của thi sĩ mà thôi. Khép bài thơ lại bằng hai câu kết bày tỏ cảm nhận mang tầm triệt luận của một thi sĩ - hiền triết. Thái độ đối với chiến tranh phi nghĩa thật rõ ràng:

"Cổ lai, nhân giả tư vô địch

Hà tất khu khu sự chiến tranh"

Từ ghép "cổ lai" trong nguyên bản được tác giả dùng theo cách hợp nghĩa, không chỉ khái niệm "xưa" "nay" bằng nghĩa nguyên thủy của từ mà bao hàm một sự tổng kết lịch sử có tầm khái quát suốt chiều dài của thời gian, chiều rộng của không gian và chiều sâu của lịch sử nhân loại (quá khứ - hiện tại và mai sau). Tác giả đã khẳng định một chân lí: Người có đạo đức nhân nghĩa là có sức mạnh vô địch, sức mạnh lớn lao ấy là bất khả kháng, chữ "nhân" vốn xuất phát từ đạo Khổng chỉ răn dạy nho sĩ đạo lý phong kiến trong khuôn khổ "tam cương, ngũ thường" nhằm đảm nhiệm trách nhiệm người quân tử phục vụ cho thể chế phong kiến. Đến Nguyễn Trãi và Nguyễn Bỉnh Khiêm đã mang một nội dung cụ thể nêu lên một quan niệm thương dân lành, chịu trách nhiệm trước dân lành chứ không phải chỉ lo "vinh thân phì gia". Câu 8 của bài thơ là lời cảnh tỉnh, lên án kẻ gây chiến, say sưa tham chiến. Người có Nhân nếu vì quyền lợi của dân làm điều tiên quyết thì dù phát động chiến tranh nhưng kẻ thù đã bị đánh lui (mục đích đã đạt) thì phải chấm dứt. Chiến tranh là phương tiện tự vệ chứ dứt khoát không phải là mục đích của "nhân giả". Chính bọn bất nhân kẻ "khu khu sự chiến tranh" đã biến phương tiện thành mục đích, chúng dùng chiến tranh để đạt mục đích cá nhân, hay của một nhóm người mà mục đích đó đối lập quyền lợi, có khi không phải một dân tộc mà còn toàn nhân loại.

     Bài thơ "Hữu cảm" của Nguyễn Bỉnh Khiêm gửi cho đương thời và hậu thế một bức thông điệp chống chiến tranh. kêu gọi hòa bình. Một thông điệp có giá trị nhân văn cao cả. Đối tượng của tứ thơ cảnh báo này đâu chỉ là các tập đoàn phong kiến Mạc-Lê, Trịnh-Mạc, Trịnh-Nguyễn, gây ra bao cuộc nội chiến "cốt nhục tương tàn" ở thế kỉ XVI mà tất cả kẻ gây chiến mọi thời đại trên hành tinh trái đất. Đây là một thông điệp có tầm vĩ mô, tại thời khắc lịch sử những năm đầu của thế kỷ XXI này, bài thơ vẫn giữ nguyên giá trị cảnh cáo những kẻ cầm quyền mọi quốc gia trên thế giới nếu vẫn còn dã tâm phá hoại hòa bình thế giới, với mục đích bẩn thỉu, vô nhân đạo. Nhân loại trải qua hai cuộc đại chiến thế giới và bây giờ đang tiềm ẩn nguy cơ thế chiến thư 3 thì càng minh chứng cho giá trị trường tồn của một thi phẩm "Hữu cảm" là thông điệp không chỉ gửi nhân loại đương thời mà còn gửi đến nhân loại vạn đại!



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét