Thứ Sáu, 11 tháng 4, 2025















"Hồn lau trắng" đôn hậu xứ "nhút mặn chua cà"

(Đọc- cảm "Vân Anh - Tuyển tập Thơ)- Bài viết của nhà văn Trần Tuấn

 

Là nữ thi sĩ sinh ra trên vùng đất nhân sử hiền triết, Vân Anh ắt hẳn mang trong trong tâm thức/ chảy nơi huyết quản dòng máu "hào kiệt" của tổ tiên. Mảnh đất đó đã thai sinh ra biết bao "anh hùng liệt nữ". Khi ta dùng chữ "đôn hậu" để khái quát thơ Vân Anh thì quả là phải luận giải cho minh chính và khôn ngoan. Vẻ "đôn hậu" này đã qua biết mấy vòng đời lột kén, "ngậm ngải tìm trầm" để rồi sắc tính "đôn hậu" được hình thành rất độc, rất riêng và rất "nghệ":

"Người Miền Trung

mười ngón chân hoá rễ cây bám đất

mười ngón tay hoá cành lá hút cạn Mặt Trời

nuôi mùa xanh trồi lên từ sỏi đá

phồn sinh!"

Thơ Vân Anh luôn "kịch liệt" mà "thâm trầm". Như quá trình lần tìm mạch sống của những rễ máu nổi hoằn họa gân xanh nơi "đất cổi cỏ cằn". Sinh ra, lớn lên, thành tài, lập nghiệp, phụng sự giáo dục, "tìm trầm" và âm thầm "trả giá" nơi đất nghèo quánh vắng. Hồn thơ ấy đã ăn bắt, quấn bện, bám chạm vào gió lào cát trắng mà không ngừng "phong phiêu" như cánh chim bằng bạt nắng, bạt gió mà vươn trải cánh tay lao động văn thơ đến một đời xao xác, xạc khô vắt kiệt dòng để "phù sa" cho một vùng văn hóa xứ sở.

"Hồn lau trắng" là ảnh tượng để tôi mường tượng và nhận ra, hay/ hoặc là minh họa về một hồn thơ: Thuần khiết mà ưu tư, yêu thương và nhiều trăn trở, dung dị đời thường, đa mang hồng trần, thiết tha tình dân tộc. Và trong mộng mỵ, bông lau hồn hậu mang mắc số phận đời, người, những "phác thảo đàn ông", "chân dung" diện mạo đàn bà. Những kiếp sống "cần cù như lũ kiến"…

Đến với tuyển tập thơ của nữ sĩ Xứ Nghệ, tôi nhận ra và khái quát ở hai nội dung lớn: Tình yêu quê hương gắn thiết cảm thức cội nguồn và vũ trụ luận nhân sinh. Hai nội dung đó có sự câu thông, đan cài để chiêm ngắm và chiêm nghiệm một cách sâu sắc/uẩn súc bằng con mắt sâu thẳm nguồn cội, tha thiết mạch nguồn "hương quê vị quán": "Trái đất này chỉ có Mẹ và Anh/ Không đòi đối lưu, không đòi tiếp nhận/ chỉ có cho, cho và cho tất cả/ vô biên như thể gió trời!"

  Nỗi nhớ niềm thương đất và người cùng những suy nghiệm thấm lắng nhân sinh

Nỗi nhớ quê luôn thường trực trong thơ Vân Anh và như đã nói ở trên, nó thấm đượm cảm thức nguồn cội :"Mẹ nuôi ta/ ngọt lời ru Ví Giặm/ thơm vị nhút, cà nghĩa mặn, tình thâm./ Từ oi nồng gió Lào rám tuổi xuân của Mẹ./ Từ gió bấc thổi buốt đời Cha…". Đó là nỗi nhớ chân thành, tiếng đồng vọng của những chứa chan, ấp iu nồng đượm. Cái mặn mòi của một con người đã trải qua đắng đót mà luôn hữu hình trong tâm tưởng khối nhớ lưu cữu và lắm lúc lật dựng vọng về nuôi nấng tâm hồn.

Quê hương trong thơ Vân Anh là khứ đau thương tận tâm, đói khổ thành thực. Đó là niềm xót xa và cả tự hào tha thiết về những kiếp sống đã thấm nhuần chịu đựng. Những lớp người đã thành vỉa quặng văn hóa đúc tạc trên những thềm gạch, khắc họa bi kí về số phận của một xứ Nghệ đày nắng đầy gió, kiên cường bất khuất…Quê hương là "giấc mơ làng Sen" Người ra đi kiếm tìm hình hài đất nước…Là "ngôi nhà lịch sử" với những giấc mơ tự do. Vẻ đôn hậu của tâm hồn có những nỗi sầu muộn, xiết bao nỗi lòng ai hoài quá khứ. Một quá khứ "Tháng ba hoa bưởi",  "phì nhiêu nghĩa mẹ/ công cha tầng tầng".

Những cuộc tuần du về quá khứ, những con mơ, cơn mộng, những nỗi bồn chồn thay lòng người xưa, tri âm "má hồng", hay cảm tưởng về thời gian và bốn mùa tuần tự… Nhà thơ đều "nỗ lực" phóng nhãn tuyến ra rộng xa hơn tất thảy để cảm nhận về đời người, sự sống, lẽ ghét thương, tình yêu, chiến tranh và nhiều hơn cả cái kì vĩ, đớn đau khôn tả và vinh diệu của vùng đất cháy đồng nung đá đã nẩy lên những mầm người đẹp oai trong "nghịch thường": "Những giọt đau…/ Nức nở chảy dọc nghĩa trang liệt sĩ…/" "Trước nghĩa trang liệt sĩ/ Những giọt đau không tự sát thương mình/ hóa giọt hồng cầu sự sống/ đỏ nhịp đập hồi sinh..."

 Chủ đề nhân sinh, định hướng cách sống và cảm quan là tiếng nói vì đại thể trong thơ chị. Chị làm thơ để được "im lặng" và lắng nghe lời ngàn năm thầm thỉ nhắc nhở, sửa phạt, khuyên răn của tiên tổ. Trước hết là với chính mình, về thái độ tri âm quê hương và nhận thức sống trong mọi lẽ đời thường: thái độ tôn trọng cuộc sống và yêu lấy lịch sử cội rễ thành người. Chính vì vậy bóng hình quá khứ xuất hiện đậm dày nơi những trang viết.

Nữ sĩ Vân Anh rất coi trọng vẻ đẹp của tư tưởng trong thi ca, vẽ đẹp đó được hình thành từ hiện thực khắc nghiệt của cuộc sống gieo lên những kiếp người, cô đọng và chắt lọc qua phương tiện trữ tình.

Những dòng thơ, ý thơ dường như ý thức rất chặt chẽ về hình thức, tuyển lựa cẩn thận từng chữ để tập trung tư duy một cách đẹp đẽ và thâu gọn nhất. Thơ Vân Anh tránh sự dư thừa không cần thiết nhưng vẫn ăn bắt cảm xúc đong đầy và chất nữ tính trữ tình riêng biệt cùng không khí, bối cảnh đời sống hiện hữu một cách khái quát và cô kết nhất. Bởi không gian tâm tưởng luôn gắn liền với những hình ảnh không/ thời gian, địa hạt hiện thực: Chùa, mùa sen, giáng sinh, thương nhớ niềm xưa, cố nhân, sông La, nhà ga, bến tàu, Trường Sa/ Hoàng Sa, những chiều Tây Hồ em mong manh như một nụ hồng, mùa thu cũng trở nên mùa em: "mỏng tang": "Người đàn bà bước vào thơ anh/Mỏng mảnh/Mong manh hồn anh./Một chiếc lá lìa cành/Thổn thức.../Một nụ hồng e ấpĐợi!"

Tiếng thơ mở ra những cách tiếp cận mới, cởi mở, với nhiều cách diễn giải đa dạng, có thể đan xen, hoặc rất khác biệt, thậm chí đối lập các cặp phạm trù. Cấu trúc thơ được diễn ngôn độc đáo và đề cao tính uyên sâu của lý trí.

Sự kết hợp giữa kinh nghiệm trực tiếp với triết lý siêu hình đã tạo nên một kết cấu thơ ở độ khái quát sâu chín. Nó vượt qua những kinh nghiệm cá nhân để cô đông về ảnh tượng nhân loại và thế giới thông qua/ bằng một góc nhìn vũ trụ siêu thiêng.

Những cảm xúc và tình cảm, trong thơ của Vân Anh luôn được cảm nhận và miêu tả với sự phản ánh phổ quát về cuộc sống con người và vũ trụ. Những yếu tố có thể tạo nên một tầm vóc thẩm mỹ hoàn toàn khác biệt, hình dung nhân sinh rất "tươi nhuận": "Đêm Trừ Tịch/ khum hai bàn tay/ hứng ba trăm sáu mươi lăm giọt Thời Gian/ nude tâm hồn/ gội - tắm."

Hồn thơ như được liệm phủ lên một lớp trầm ngôn văn hóa, diễn dịch văn hóa xử sở bằng những điệu vần lấp lánh sự sống. Nơi tiếng thơ có sự kết nối vũ trụ, có tiếng nói ngoài không gian sự sống, có lời ủy mỵ, xót lòng yêu lẫn sự tập thôi ngưng cái đa đoan giăng mắc hồng trần: Thất sủng trong ánh mắt Ađam/ Eva thành phế tích thời gian./ Ngồi thiền... lần hạt quá khứ/ xả buồn lưu cựu.../ Buông!"

Con chữ trong thơ Vân Anh: có buồn, có vui, quanh quẩn sáng chiều da diết nỗi quê hương đau thương và tình yêu cũng như đức hi sinh đàn bà. Như mây vần vũ, con chữ cứ ríu rít như chim trên trời, cá dưới nguồn nơi sông Lam, núi Hồng.

Những con chữ như bát cháo mẹ giành dụm cho con, đói con ăn, dư con sẻ cho người. Thấy cuộc đời bớt mênh mông đi đôi chút bởi ta đã gói ghim nó trong những vần thơ được lựa lọc tỉ mỹ và đặt xếp kì gò một cách mẫn cán.

Chị xem chữ để cho bạn (gửi tặng từng người tri kỉ) và buộc chặt nhau trôi trên dòng sông chở bầu trời tình mẹ, có lúc lội ngược dòng, buồn nhớ chốn hạ lưu. Sông Lam để lại lớp phù sa nhân nghĩa trên mảnh đất văn chương, một chốn thân thiết ấy lưu neo.

Những con chữ như chăn gối, lạnh thì ôm, nóng buông ra. Chữ trong thơ ấy đã dệt gấm chân hoa những miền cổ tích, nỗi nhớ Kiều nhi hay những nặng lòng với oan tình phụ nữ Á Đông.

 Những dòng thơ và người thơ đó gắn bó sâu sắc, bốn mùa trên phiến lá như giọt nước mắt long lanh. Chữ Vân Anh đã học cách "buông" như Ngài đã đến và chìa tay đón lấy người học trò tiền kiếp. Bởi thế càng về sau nỗi đau càng được liền hình riệt vết cắt.

 Tiếng thơ say tình, say nghĩa, gặp gỡ bạn bè nâng ly và cười. Tiếng thơ "đỡ hài nhi vũ trụ". Tiếng thơ an nhiên bên mộ người Cha, đem đến cho người đọc niềm tin yêu cuộc sống cá thể có thể lụi tàn nhưng cuộc sống nhân loại mãi vĩnh hằng : " Xuân đến rồi lộc chồi tách vỏ/ cỏ trên mồ lại nhú non tơ", tin ngày mai sự sống vẫn miên viễn xanh, ai đi qua sẽ để lại một cành hoa, cũng trao cho cuộc sống một chút thơ ca. Và con người Vân Anh: Khiêm nhường, riêng tư, tự yên vui, tự họa chân dung: "Trái tim cô đơn/từ muôn kiếp trước/Tâm hồn khao khát đến muôn kiếp sau/Đa tình bẩm sinh/trong máu/Khâu buồn làm áo che thân" Để rồi: "con tàu "Hành Tinh Trái Đất"/chìm vào lỗ đen vũ trụ/  nhưng những bản tình ca/vẫn vang vọng không trung".

  Ấn tượng thẩm mỹ qua mấy bài thơ

"Lỡ nhịp nhân gian" là một hình hài thơ "rất thật đàn bà". Trong mối liên hệ với người xưa cùng bổn phận. Nhà thơ đã minh họa vẻ đẹp tâm hồn và tư tưởng của mình thông qua hình ảnh "Bà Chúa  Thơ Nôm" như cách để minh định, căn cước chính mình. Ta thấy được tinh thần, khát vọng dân chủ và cuộc cách mệnh mạnh mẽ nơi hồn thơ nữ sĩ qua bài thơ đậm chất "tuyên ngôn" này! Thế nhưng đây không phải một tiếng thơ theo kiểu "hậu hiện đại" khiêu khích và lý sự búa xua. Rất lý trí, hình ảnh một người "đàn bà nghị viên", có dũng khí, lý luận và ra mặt chất "nữ tướng".

Ở nhà thơ nữ Vân Anh luôn có cái "táo tợn" đầy tư thái "cách mệnh". Giọng thơ với sắc tính "tuyên bố", rất "khí khái", "thấu đáo", tuyên xưng, ngọa dụ chắc nịch, chặt chẽ. Như cách tiếp nối tinh thần bất diệt của cuộc "khởi nghĩa nữ quyền" trên mặt trận văn hóa được đốt rực bởi nữ sĩ Hồ Xuân Hương  hơn hai trăm năm trước.  

 Có thể nói thơ Vân Anh đầy nhựa sống và khát vọng được thể hiện, được sánh ngang với người quân tử, đấng anh hùng. Qua lời lời có "thép" đó, sau cùng nhà thơ đồng điệu, tri âm với số phận thiếu phụ, những người đàn bà trên khắp nhân gian đã từng khổ lụy và rải rác những tiếng nói đối nghịch, bất ưng dữ dội và đơn côi, đã từng bị vùi dập cho tắt vắng.

Nàng là ai ?
Cao sang hay dân dã.
tự họa chân dung trác lạ
tự khoe nõn nường thiếu nữ
tự ngã "tấm lòng son " giữa" bảy nổi ba chìm với nước non"
Tung danh thiếp nữ tôn
" Này của Xuân Hương"
trước chế độ nam quyền vây hãm
tháo gông" tam tòng" mặc định thân phận.
chối bỏ vác thập tự khổ đau qua sa mạc hôn nhân.
Nàng là ai?
Dám xé toạc khế ước bịt bùng lễ giáo
lột áo dối hèn " hiền nhân quân tử"
nude khát thèm tình yêu lứa đôi.
Hơn hai trăm năm thế sự lở bồi
Nàng đứng đó dương cao tuyên ngôn đòi đổi phận.
Nàng mê mải tấu khúc bình quyền, bình đẳng
đợi bao thế hệ ĐÀN BÀ đồng hành.
Khói bụi thời gian mờ tỏ chủ nhân Cổ Nguyệt Đường
Những bí ẩn mối tình trái ngang
Khát vọng nữ quyền gãy cánh
Còn lại cho đời
Một BÀ CHÚA THƠ NÔM."
"Lại đây" ..." Chị dạy làm thơ"
Thơ không son phấn mấp mô nhịp đời
Trái tim vỗ khúc đơn côi
Biển Quỳnh sóng chẳng sánh đôi ...Thương Nàng.
Xót đau lỗi kiếp nhân gian
Dâng Nàng thô mộc đôi vần tri âm .

 Khảo sát thêm "Bản nháp", ta lại thấy vẻ đẹp nghiệm sinh rất vi diệu. Hành trình cuộc đời đến ga cuối, tác giả lại ước là thứ "liệm bỏ" để có thể nhiều hơn nữa những "thiêu thân" cho lần sau "rón rén" vào đời, bớt đi những điều "ngông nghênh". Trong thơ có nỗi đau đáu lớn lao, có khát khao chữ hiếu, có mong mỏi trọn vẹn chữ tình.


"Ngông nghênh tuổi trẻ
Vô tình đục rạn chân chim mắt mẹ.
Ngông nghênh tuổi trẻ
Vô tình vít còng lưng cha.
Hồn nhiên bước vào ngôi nhà hôn nhân
Cuộc sống lứa đôi
Đại ngàn nhiệt đới
Ta bơ vơ đứa trẻ rừng chiều lạc lối
Như thiêu thân
Lao vào ánh sáng công danh
Bảy dại.. Ba khôn
Một giận.. Mười buồn

Đi giữa cõi nhân gian
Ta như quả non xanh
Ủ đất đèn chín ép.
Chuyến tàu đời vừa qua ga Lục Thập
Ngoái lại, ước chi
Đó là BẢN NHÁP."

Và cuối cùng nữ sĩ đã ngẫm ngợi và "tự thuật". Đàn bà_ hạ thủy, là "nước". Cơ cấu chất thể của nước là "hóa thân" vĩnh cửu, thường hằng cùng vũ trụ: có khi êm đềm nơi hồ câu, khi là sóng dữ ngoài khơi sâu, khi là hơi ăn gió mòn sương. Và nước em quyết định sự tồn vong của anh. Một giọng thơ đầy cháy bỏng khao khát, cũng đầy cao nhã, đôn hậu và bao dung… Quay về "luyện tâm", người phụ nữ luôn ở vị trí phía sau như để "hi sinh".

"Là nước
Đàn bà đẩy
con thuyền công danh đàn ông
sang bờ bên kia… khát vọng
Là nước
Đàn bà nhấn
con thuyền công danh đàn ông
chìm dưới đáy đại dương… tuyệt vọng".

Qua ba bài thơ ta được dịp nhận diện rõ hơn gương mặt của hồn thơ ấy! Một cõi tinh thần với nhiều "tâm sự thiếu phụ". Một hồn thơ đã lặn lội với trầm luân, vượt quan ải để rồi cất lời sinh động về trái đất, đại dương cạnh sự nhỏ bé, đơn chiếc của con người. Sau tất cả, trái tim chị là trái tim của phái nữ, thân phận này cũng chỉ là phận "em", là "nàng". Và chỉ "Trái tim biết…ủ lửa trấu vùi" cho đỡ lạnh lòng đau…

Hàng ngàn tiếng vọng, tiếng hình dân tộc, non sông xứ sở, tình yêu và nỗi nhớ, Những đêm huyền sử "Tiền nhân báo mộng". Vết sẹo chiến tranh của xứ Phù Tang, quả gấc và mặt trời những chín đỏ phận người… Tất cả tựu trong hình, trong tiếng ngàn năm nhuốm đọng không trung. Vân Anh đã gửi gắm chân tướng vạn vật trong văn chương, nơi "Khởi thủy là lời", nơi ngôn ngữ truyền thừa văn minh, diễn dịch cuộc sống. Có thể nói rằng đàn bà tràn dư sự có thể "nông cạn giếng khơi".

                                                                       TUẤN TRẦN

 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét