Thứ Năm, 10 tháng 4, 2025

THÔNG ĐIỆP BÌNH ĐẲNG GIỚI

Bài viết của nhà thơ Vân Anh


Dưới chế độ phong kiến, tư tưởng " Trọng nam khinh nữ", biểu hiện không chỉ trong gia đình, dòng tộc mà còn lan tỏa trong cộng đồng xã hội nhằm "xóa sổ" phụ nữ - một lực lượng chiếm già nửa dân số thế giới.

Nữ sĩ Hồ Xuân Hương trong sáng tạo thi ca của mình luôn luôn vượn tới khẳng định vai trò hiện hữu của lực lượng phụ nữ trong mọi lĩnh vực cuộc sống..."Mời trầu" là bài thơ nằm trong mạch chủ đề ấy. Tục lệ mời trầu là một nét đẹp văn hóa của dân ta từ xưa.. Khách đến nhà mời chén trà, miếng trầu, rồi "miếng trầu là đầu câu chuyện". Từ đó mời trầu đi vào văn hóa giao tiếp, thành một mỹ tục của dân ta trong việc dựng vợ gả chồng cho con cái (như lễ chạm ngõ còn gọi là lễ "bỏ trầu", hiển nhiên buồng cau, liền trầu là lễ vật không thể thiếu trong lễ hỏi vợ. Cơi trầu têm cánh phượng trong lễ xin dâu...Và trong xã hội Việt Nam xưa, khi gia đình nhà gái đã "nhận trầu" của nhà trai coi như hôn nhân đã được định đoạt. Cho nên, các bậc cha mẹ xưa thường khuyên răn "làm thân con gái chớ ăn trầu người" ...Mượn việc miêu tả cô gái mời trầu chàng trai, nữ sĩ họ Hồ đã thông qua đề tài nhỏ bé mà bộc lộ chủ đề lớn lao mọi thời đại quan tâm: Vấn đề BÌNH ĐẲNG GIỚI và VAI TRÒ NGƯỜI PHỤ NỮ TRONG XÃ HỘI.

Mở đầu bài thơ, tác giả viết:

"Quả cau nho nhỏ miếng trầu ôi" (có dị bản là "hôi")

Qua cách tả hình dáng quả cau "nho nhỏ" (nếu "nhỏ" chỉ thuần túy tả về cau), ta liên tưởng dáng vẻ nhỏ nhắn, xinh xắn, duyên dáng đầy nữ tính của người con gái được ví ngầm ở đây. Rồi cách tự nhận là "miếng trầu ôi", tỏ sự khiêm nhường (trầu không được tươi lắm (đằng sau lời nói này là một nụ cười duyên của cô gái - kỳ thực trầu vẫn xanh đến nao lòng đấy thôi). Ở đây, tác giả đã để cho cô gái tự khoe vẻ đẹp, điều đó bộc lộ thái độ TỰ TÔN, khác hẳn người phụ nữ phong kiến đa phần đậm tâm lý tự ti. Và ta bắt gặp rất nhiều lần bà đã cho họ tự hào về nhan sắc của mình như trong bài "Bánh trôi nước" hiện lên vẻ đẹp nõn nà của thiếu nữ "thân em vừa trắng lại vừa tròn"... Sau câu khai (mở đầu) "thu nhỏ" mình, bất thình lình bà phóng ra một "mũi tên" như một thiện xạ:

"Này của Xuân Hương đã quệt rồi"

Hãy trả bài thơ về thời điểm ra đời. Khi mà trong đời thực, người phụ nữ chẳng có danh phận gì từ trong gia đình đến ngoài xã hội. Cất tiếng khóc "oa oa' chào đời họ vấp ngay "lô cốt" truyền kiếp "nam tôn nữ ti" (trọng nam khinh nữ.). Dòng tộc không cho họ bước vào gia phả với quan niệm "nhất nam viết hựu, thập nữ viết vô" (sinh một con trai ghi gia phả có con, sinh mười con gái ghi vào không có con). Lớn lên làm vợ, làm mẹ, làm bà, làm cụ và cho đến ngày tận số là một cuộc hành trình bất di bất dịch theo đạo TAM TÒNG (tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử - ở nhà theo cha, lấy chồng theo chồng, chết theo con trai). Bởi vậy, người phụ nữ phải sống một cuộc đời "tầm gửi" trên số phận của đấng nam nhi. Thế mà cô Xuân Hương trong bài thơ lại XƯNG TÊN một cách cao ngạo: "Này của Xuân Hương đã quệt rồi". Người đàn bà trong bài thơ không đếm xỉa gì đến phong cách giao tiếp của lễ nghi phong kiến, buộc họ phải tự xưng là "tiện thiếp" (người đàn bà thấp hèn). Kể ra đây là hiện tượng "độc nhất vô nhị" trong lịch sử văn học thời phong kiến, tác giả là một phụ nữ tự xưng tên mình như thế. Nữ sĩ họ Hồ đàng hoàng "trình làng" danh phận của mình- Một sự hiện diện nhỡn tiền của người phụ nữ trước đời. Họ có tên tuổi hẳn hoi, chứ không phải vay mượn tên chồng, tên con, hay gọi một cách phiếm chỉ miệt thị "ả hoe", "mẹ chắt" như bao đời nay ở các làng quê.

Mượn lời "mời trầu" - là một cách tác giả XƯNG DANH cho phụ nữ. Khi đã có tên tuổi, ắt sẽ có vị trí xã hội - một vị trí cũng ngang bằng với cánh đàn ông. Nhà thơ tiếp tục tuôn chảy mạch thơ "công phá" vào thành trì của lễ giáo phong kiến:

"Có phải duyên nhau thì thắm lại"

"DUYÊN NHAU" - "THẮM LẠI" là hai cặp nhãn tự "mắt thần" của thi phẩm. Vâng! Phải có chàng yêu nàng và nàng yêu chàng mới làm nên cái gọi là "duyên nhau". Với ý thơ này, bà đã nhằm thẳng vào vấn đề quan trọng nhất của hôn nhân và gia đình trong xã hội cũ hết sức hà khắc và phi lý là khi quyết định hạnh phúc lứa đôi, người phụ nữ bị gạt ra rìa, nhất nhất phải tuân thủ sự sắp đặt "cha mẹ đặt đâu, con ngồi đó". Nữ sĩ đã lên tiếng ủng hộ quan niệm mới mẻ về hôn nhân: Phải có tình yêu đôi lứa đích thực (duyên chàng và duyên nàng) mới đi đến hôn nhân tốt đẹp. Và quan niệm tiến bộ đó hoàn toàn phù hợp với quan niệm dân gian "ép dầu, ép mỡ, ai nỡ ép duyên".

Một khía cạnh tạo nên sự ĐỘC ĐÁO của tứ thơ toàn bài - đó là người con gái trong bài này chủ động "mời trầu" người con trai. Chẳng ai ấu trĩ chỉ coi đây là miếng trầu cụ thể. Miếng trầu và việc mời trầu trở thành hình tượng nghệ thuật chở tải một giá trị tinh thần: Một lời TỎ TÌNH vừa tế nhị, vừa tha thiết. Tự vượt lên thân phận bị khinh rẻ, bỏ lại sau lưng cái tự ti cố hữu, nàng Xuân Hương tự bộc lộ BẢN NGÃ TÌNH CẢM của mình một cách táo bạo, mãnh liệt chẳng khác gì một đấng mày râu. Đó là dấu hiệu bình đẳng giới trong địa hạt tình yêu nam nữ. Vốn dĩ tâm lý thụ động đã chi phối toàn bộ đời sống tinh thần của phụ nữ xưa. Họ phải chôn vùi sự thật tình yêu trong trái tim mình và bị "kéo lê" theo tình cảm của người đàn ông đã chọn mình tính chuyện trăm năm. Ở đây, khi thẩm nhận tác phẩm này, ta dễ bỏ qua cặp quan hệ từ: CÓ PHẢI - THÌ và ĐỪNG. Đó là một giả định rằng: Nếu đôi bên nam nữ yêu nhau thì mới lấy nhau, nhược bằng tình yêu đơn phương hoặc không có tình yêu thì chớ bước vào "cái sự trăm năm" ấy mà "tù chung thân" đời người cho chàng, cho thiếp. Cho nên, nói đây là lời tỏ tình táo bạo cũng đúng mà lời răn đe đôi lứa, lời tư vấn minh triết tiền hôn nhân cũng chẳng sai.

Toàn bài bộc lộ kỳ tài của ngòi bút nữ sĩ họ Hồ. Miếng cau, vôi quệt vào trầu hòa quyện với nhau trong màu đỏ thắm của miếng trầu. Nếu rời rạc, không ăn nhập, thì lá trầu cứ xanh, màu vôi cứ bạc trắng mà thôi. Thần bút ở câu cuối là vừa tả thực, vừa vận dụng ý thành ngữ "xanh như lá", "bạc như vôi", mang ý nghĩa so sánh ngầm với sự bạc bẽo không thắm thiết gì như tình cảm lứa đôi bị sắp đặt. Đó như một hồi chuông cảnh tỉnh, báo hiệu một kết cục "vô tiền khoáng hậu" của những cuộc hôn nhân ngoài tình yêu.

Chân dung thiếu nữ trong bài MỜI TRẦU, phải chăng là chân dung tự họa của tác giả. Cô gái hiện ra trong bài thơ đâu chỉ xinh đẹp về hình thể mà còn duyên dáng, đáng yêu tỏa ra một vẻ đẹp cao quý của tâm hồn, từ một bản ngã tình cảm đáng trân trọng. Cô gái Xuân Hương đã tung vào xã hội đương thời một tấm DANH THIẾP với đầy đủ họ tên và vị trí xã hội. Đây được xem như một thông điệp mang ý nghĩa nhu cầu tự thân của phụ nữ về bình đẳng giới, một tối hậu thư phản kháng lễ giáo phong kiến nghiệt ngã, vô lý. Với tối hậu thư này, tác giả đã trở đi, trở lại nhiều lần trong văn chương của mình. Đỉnh điểm là ý thức dám đòi ĐỔI PHẬN:

"Ví đây đổi phận làm trai được

Thì sự anh hùng há bấy nhiêu".

 (Đề đền Sầm Nghi Đống).

Bài thơ MỜI TRẦU, cũng đủ tạo phong cách rất riêng của Hồ Xuân Hương, bà không hổ danh là BÀ CHÚA THƠ NÔM. Sự nghiệp thi ca của bà với lối thơ phá cách, ngôn ngữ bình dị mà sáng tạo để chở tải một tư tưởng mới mẻ, một triết lý sống lạc quan. Đặc biệt xuyên suốt một chủ đề mà nhân loại mọi thời đại quan tâm: Vai trò của người phụ nữ trong xã hội. Bà đã gửi cho đương thời và hậu thế một bức thông điệp nhân văn cao cả: Đó là THÔNG ĐIỆP BÌNH ĐẲNG GIỚI. Văn chương của bà khơi dậy trong lòng người đọc một suy ngẫm sâu sắc: Sự nghiệp giải phóng phụ nữ muốn đi đến bờ đến bến thì trước hết lực lượng cần được giải phóng, phải tự ý thức đày đủ, phải có nhu cầu bức thiết về sự bình đẳng giới trước khi toàn xã hội vào cuộc với mình. Và một trong những chỉ số quan trọng của một xã hội văn minh là tôn trọng, khẳng định vai trò phụ nữ và giúp họ phát huy hết năng lực sống tích cực để làm nhiều điều hữu ích cho đời. 

Bởi vậy, hậu thế đã tri ân với vị sứ giả của bình đẳng giới, người đã dùng một Đời Thơ đau đáu Nữ Quyền nhưng "sinh bất phùng thời" bằng sự tôn vinh của Unesco vào tháng 11/2021: Nữ sĩ Hồ Xuân Hương là Danh Nhân Văn Hóa. 


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét